Tản Đà dịch thơ và đoán số

14 Tháng Chín, 2016 | Tướng số

 

Sau khi Nam Phong Tạp chí đình bản hẳn rồi (1932), Tản Đà lui về quê nhà sống. Những ngày nhàn cư, ông kiểm điểm lại công tác trong một bức thư gửi các bạn tri kỷ, tri âm xa gần, không luận thân quen:

 

Bốn phương bay mỏi cánh hồng

Đường mây bãi tuyết chán lòng tha hương

Tản viên bóng gác tà dương

Gió thu giục khách lên đường về quê

Trùng dương rót chén hoàng huê

Năm đi tính lại năm về ba ba (1933)

Bắc Nam bao độ vào ra

Tình duyên gặp gỡ này là những ai

Còn về còn nhớ đến người

Còn duyên văn tự còn lời nước non

Biết nhau từ khối tình con

Chung nhau từ thuở tóc còn đương xanh

Yêu nhau sáu tháng Hữu thanh

Tản Đà thư điếm Hà Thành nối duyên

Nước non đã nặng lời nguyền

An Nam Tạp chí con thuyền lênh đênh

Phong ba đành gạt mối tình

Tám năm tay lái một mình ngược xuôi

Quản chi sông rộng đoành khơi

Buồm không thuận gió ai ơi cũng đành

Bẽ bàng tóc bạc rừng xanh

Thôn quê nay với đô thành khác xa

Phòng văn ai kẻ vào ra

Sương thu bốn dậu trăng tà nửa hiên

(Tản Đà)

 

Thật là tội nghiệp! Tản đà có vẻ như một chiến sĩ bại trận trở về. Muốn có tiền “thơ rượu khề khà” thì phải viết mướn. Dịch Đường thi, chú giải Truyện Kiều, duyệt thơ văn Cổ cho nhà xuất bản Nam Kỳ, dịch Liêu Trai Chí Dị… Từng ấy công việc với lợi tức ruộng đất ở thôn quê cũng không đủ cho Tản Đà âm tiêu phong túc. Bạn tri âm xa gần đều ái ngại, Tản Đà vẫn lạc đạo an bần.

Nhưng cậu em ruột bà Tản Đà là Hán Thu Nguyễn Tiến Lãng lại không bằng lòng ông anh rể và bà chị ruột phải chịu túng thiếu. Là một viên chức cao cấp được quan Toàn quyền yêu quý, được giải “Ruban Tía” của Viện Hàn Lâm Pháp, ông này viện lý Tản Đà là một thi sĩ của chủ nghĩa Pháp Việt đề huề đáng được hưởng Huy Chương và trợ cấp  của chính phủ Bảo hộ. Căn cứ vào đâu mà Nguyễn Tiến Lãng nói Tản Đà cổ động thuyết Pháp Việt đề huề? Tản Đà có làm công việc này thực sao? Số là trong những quyển sách Âu Học như quyển “Lên Tám”, Tản Đà có câu thơ như sau:

 

“Khai hóa có Đại Pháp

Văn minh gần không xa.”

 

Đó là những câu thông thường trong thời Pháp thuộc mà thôi. Không lẽ lại hô hào con nít 7, 5 tuổi làm Cách Mạng? Nguyễn Tiến Lãng xin trợ cấp con cho Tản Đà!

Nhục cho danh dự thi sĩ quá! Tản Đà liền viết một bài thanh minh tâm sự, cuối cùng có những câu: “Nghe như một việc ông Nguyễn Tiến Lãng không xin phép tôi mà làm như thế khác nào như bảo tôi ăn miếng cơm thà lài (miếng cơm bố thí. Than ôi lại đây mà ăn!) Tôi cho như thế là hỗn vậy. Hải nội chư quân tử nghĩ sao?”

Báo Phong Hóa đương thời được dịp xen vào, bài đó là chuyện nhà của thi sĩ, không cần phải hỏi: “Hải nội chư quân tử” làm gì. Cứ lấy gia pháp mà trị, đét cho cậu em ít roi.

 

Tuy lui về quê hương, song Tản Đà lúc nào cũng nặng lòng vì nước non. Ông không hề quên nhiệm vụ “khai thông dân trí” mà tung một chuyến hầu trời. Trời đã giao phó cho ông. Người đã quen mắt thiên lương, không còn phân biệt được đâu là chính, đâu là tà, đâu là sinh cơ, đâu là tử lộ.

Lúc bấy giờ, quân Phiệt Nhật Bản đã bá chiếm Mãn Châu, uy hiếp Hoa Bắc. Ở Pháp, Đảng Xã Hội của Léon Blum thắng thế. Đầu năm 1936, Tản Đà có bài “Ngày Xuân Chúc Quốc Dân” hô hào người trong nước mau giác ngộ, tìm phương lược tự cường:

 

Trời Nam cành lá la đà

Lạc Hồng cây cỗi Xuân già càng Xuân

Ngày Xuân chúc nước mừng dân

Ba kỳ Nam Bắc mười phân phú cường.

Bính Tý hội nguyên kim dĩ thương

Mỗi Sơn Hà cũ kỹ bốn nghìn năm

Đường văn minh muôn dặm xa xăm

Đông Tây Bắc người Nam cất bước

Quân bất kiến: Phi Luật tân như kim Mỹ Châu độc lập quốc.

Hựu bất kiến: Mãn Châu Hoa Bắc Hà bi thương!

Thời hưng vong bỉ thái là thường

So mới biết: chữ “Đại” chữ “Cường” không hạn lệ

Việc trước mắt năm châu là thế

Cuộc tuần hoàn dâu bể bể dâu

Muốn hạnh phúc chữ “tự cầu” ta phải biết

Hồng Lạc nhi tôn thiên vị tuyệt

Việt Thường hoa thảo nhật câu tân

Chén rượu đào nâng rót buổi ngày Xuân

Chúc tổ quốc quốc dân nghìn vạn kỷ

Bính Tý hội kim nguyên dĩ thủy

Mỗi sơn hà cũ kỹ bốn nghìn năm

Năm, năm, Xuân mới trời Nam

(Tản Đà)

 

Năm Bính Tý (1936) thế giới đã có những biến chuyển quan trọng, Tản Đà khuyên quốc dân mau tự cường để mưu việc hạnh phúc tương lai. Anh há chẳng thấy Phi Luật Tân mà bây giờ Mỹ Châu coi là nước độc lập. Lại chẳng thấy số phận Mãn Châu và Hoa Bắc sao bi thương, việc hưng vong, vận bỉ thái là những chuyện thường xảy ra trong đời sống một dân tộc. Trời chưa nỡ cắt đứt dòng giống con cháu Rồng Tiên, đất Việt thường lại có Xuân mới. Muốn cho quốc gia hưng thịnh, ta phải làm thế nào biết tự cầu, nghĩa là nỗ lực tiến lên, chớ để bị lạc hậu. Đừng trông vào độ lượng khai hóa của nước nào. Tản Đà bài xích thái độ vọng ngoại, chờ người ta cứu giúp mà tự mình không có chí hướng quật cường tự cứu.

Nếu có phương tiện, chắc là ông đã tái bản lần thứ 6 hay lần thứ 7 tạp chí An Nam. Nhưng cuộc sống dịch văn mướn, viết bài thuê cũng làm cho tác giả nhiều khi chán nản, buồn rầu. Ông lại than:

 

Thân mình lo chưa nổi

Nói gì đến xã hội?

Thân thế tính không xong,

Nói gì đến núi sông

(Tản Đà)

 

Gần đến Xuân Đinh Sửu (1937) tiễn ông Táo về Trời, ông lại có những câu than thở:

Khi làm chủ báo, lúc viết mướn

Hai chục năm dư cảnh khốn cùng

Trần gian thước đất vẫn không có

Bát sắt chẳng hơn gì bút lông

Ngày xanh như ngựa, đầu xanh bạc

Chán cả giang hồ, hết cả ngông.

Qua hết Đông này năm chục tuổi

Xuân sang đã nửa giấc mơ màng

Văn chương quần mãi cùng thân thế

Sự nghiệp mong gì với núi sông?

(Tản Đà)

 

Không có sự nghiệp gì với núi sông nhưng mà vẫn phải ăn, nhất là bữa cơm phải có rượu. Từ khi dọn nhà ra Hà Nội, muốn có tiền tiêu, Tản Đà xoay nghề đoán số Hà Lạc (1937). Thi sĩ kiêm nghề thầy số. Thầy tự quảng cáo bằng thơ:

 

Nguyễn Khắc Hiếu Tản Đà

Hà Lạc đoán lý số

Đàn ông và đàn bà

Kẻ gần xa đều hỏi

Thư gửi người ở xa

Biên rõ năm cùng tháng

Ngày giờ nào đẻ ra

Một cữ ước tuần lễ

Có thư mời khách qua

Quyển số lấy đã rõ

Xin cứ nói thật thà

Hán văn âm Quốc ngữ

Quốc văn bày nghĩa ra

Còn như tiền đặt quẻ

Nhiều năm, ít có ba.

Nhiều ít tùy ở khách

Hậu bạc kể chi mà

Tản Đà kính cáo

 

Những ai lăn lóc trong trường văn trận bút, những ai là bạn tri âm, tri kỷ, yêu văn, mê thơ, tất cả những ai xứng danh là Hải nội chư quân tử đã thấy tủi cực và nghe lòng rướm lệ hay chưa?

 

Còn như tiền đặt quả

Nhiều năm, ít có ba

 

Bao nhiêu cũng được. Nếu khách là người hằng sản, hằng tâm thì trả dùm cho giá thân hữu là $5. Còn như không thì 3 đồng cũng được. Phương ngôn có câu “Bói rẻ hơn ngồi không”. Thi sĩ đang thất nghiệp, đói cơm thèm rượu đấy!

Tú Mỡ có bài thơ bông đùa, gửi cho Tản Đà và Tản Đà cũng đã họa lại bài thơ này.

Nguyên bài xướng của Tú Mỡ như sau:

 

Nghe đồn bác Hiếu Tản Đà

Mở hàng tướng số tỉnh Hà nay mai

Chừng bác thấy các thầy “Lốc cốc”

Chỉ chuyên môn nói róc ăn tiền

Tán hiêu tán vượn huyên thiên

Nói Thánh nói Tướng như Tiên như Thần

Ngồi bẻm mép kiếm ăn cũng dễ

Chẳng khô như bạc nghệ làm văn

Lao tâm trí khổ tinh thần

Nhà thơ vắt óc tìm vần gọt câu

Lắm lúc bí, gan rầu ruột thắt

Thức thâu đêm, môi mắt phờ râu

Nhọc nhằn ai biết công đâu?

Để cho thiên hạ giải sầu mua vui.

Nghề thơ chẳng đủ nuôi thi sĩ

Nên bạn tôi phải nghĩ đường xoay

Nhà Nho chữ tốt văn hay,

Thời khoa lý số hẳn tay cũng tài.

Và xưa đã dùi mài kịch dịch

Báo An Nam chú thích tinh tường

Ngày nay đoán việc Âm Dương

Hẳn không bỏ phượu như phường ba hoa.

Nào hãy đến Tản Đà Cốc tử

Quẻ Càn Khôn hỏi thử ra sao?

Xem tài thầy thắp hay cao

Mười câu họa có câu nào sai chăng?

Dù thầy có tán trăng tán cuội

Nghe nhà thơ lời nói văn hóa

Nhất khi rượu đã khề khà

Tán đâu ra đầy mặn mà có duyên

Thời khách mất đồng tiền đặt quẻ

Cũng vui tai và sẽ vừa lòng

Nhưng xin thầy chớ nói ngông!

(Tú Mỡ)

 

Trong cái cười ra nước mắt này, Tản Đà cũng còn đủ thi hứng hoạ lại, thuyết minh vì sao mình làm nghề đoán số Hà Lạc. Có 2 lý do chính đáng:

– Một là nghề thơ đói lắm nên phải xoay sinh kế.

– Hai là vâng mệnh trời khôi phục lại uy tín, thể thống cho kháa Lý Số đã bị một số thất học gian manh lợi dụng làm mất giá trị chân chính đi.

 

Họa bài “Tản Đà Cốc Tử” (Đáp lời Tú Mỡ):

Nghe ai bị báng Tản Đà

Bảo chương lên tiếng tỉnh Hà mỉa mai

Ừ tớ vẫn học nghề Quỷ cốc

Nhưng chẳng ưa nói róc ăn tiền

Thiên lương chưa bén duyên thiên

Rượu thơ còn vẫn chén Tiên cầu thần

Cuộc trần thế kiếm ăn chẳng dễ

Rẻ rúng thay là nghệ làm văn

Thâu đêm hao tốn tinh thần

Đèn xanh chiếc bóng xoay vần túng câu

Nào ai biết gan sầu ruột thắt

Thế mà sao mỏi mắt cùn râu

Nỗi buồn thực thế vì đâu?

Quá thương oắt chén gượng sầu làm vui

Đấng Tạo Hóa còn nuôi thi sĩ

Các Thánh sư phải nghĩ đường xoay

Dẫu rằng Lý Số không hay

Chu Công Khổng Tử ứng tay nên tài

Từ thuở nhỏ dùi mài Kinh Dịch

Báo An Nam nghĩa thích đã tường

Việc đời hai chữ Âm Dương

Tiếc thay mất giá tại phường ba hoa

Trời mới sai Tản Đà Tiểu tử

Vạch Càn Khôn xét thử lại sao?

Trổ tài thần thánh tuyệt cao

Mà cho thiên hạ xem vào phải chăng?

Mặc những kẻ tán trăng tán cuội

Sá chi ai lời nói ba hoa!

Giang sơn đương lúc khề khà

Nghe thơ Tú Mỡ đậm đà có duyên

Riêng với bác miễn tiền đặt quẻ

Đoán thật hay bác sẽ ghê lòng

Tuổi già nay tớ không ngông

(Tản Đà)

 

Các Thánh sư mà cũng phải nghĩ đường xoay thì quả là sinh kế khốn quần đến cực điểm. Tuy nhiên xoay cũng có năm bảy cách “Hà Lạc đoán Lý Số đàn ông và đàn bà”, chứ không thể xoay đến mức vào làm văn nô trong Phủ Toàn Quyền, ca tụng công ơn khai hóa của Pháp!

Chuyện đoán Lý Số tuy đã thương tâm song không bằng chuyện sau đây. Số là trong một cơn say bực tức, Nguyễn Vỹ có viết mấy câu:

 

Nhà văn An Nam khổ như chó,

Mỗi lần cầm bút nói văn chương.

Nhìn đàn chó gặm trơ xương

Mà thương cho tôi, thương cho anh

Đã rụng bao nhiêu mớ tóc xanh…

(Nguyễn Vỹ)

 

Tản Đà giận lắm, định gặp Nguyễn Vỹ thì phải mắng cho một trận. Hai bên gặp nhau trong quán rượu. Tản Đà khề khà hỏi:

– Sao anh lại ví nhà văn Việt Nam với chó? Anh không sợ xấu hổ sao?

Nguyễn Vỹ cãi bướng:

– Thưa cụ, tôi có ví thế thì chó nó xấu hổ chớ việc gì đến chúng ta?

Hai cái nhìn thông cảm và ngao ngán! Tản Đà lặng thinh nuốt hết đắng cay trong cốc rượu ngoài hiên quán.

Ngày mùng 7 tháng 7 năm 1939, Tản Đà xa lánh cõi trần, hưởng dương 52 tuổi. Báo chí ba Kỳ lúc ấy đều tỏ lòng thương tiếc vô cùng.

“Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa”.

Tản Đà chịu nghèo khó để giữ vững lòng trong sạch cho đến lúc qua đời. Không chịu làm văn nô cũng như không nhận miếng cơm “ta lài” bố thí của thực dân Pháp.

 

Thằng nào đêm tối nỉ non

Sáng ra lên mặt vợ con hợm mình.

Ta quen phong thái bình sinh,

Dám đem ngòi bút coi khinh công hầu.

 

Tản Đả là nhà thơ cũ duy nhất được thế hệ thanh niên thi sĩ trong phong trào thơ mới kính phục. Năm 1941, khi xuất bản quyển Thi Ngân Việt Nam, Hoài Thanh đã in một bài thơ của Tản Đà lên đầu sách kính cẩn mời Hội chủ khai mạc buổi bình thơ. Các thi sĩ trẻ tuổi đều công nhận cử chỉ đẹp đẽ, thỏa đáng, hợp tình, hợp lý.

 

Giáo sư Thiên Phúc,

Vũ Tiến Phúc

(Tác giả Việt Nam Văn Học Giảng Minh, Alpha, Saigon, VN – 1974)

Cộng tác thường xuyên với TiVi Tuần-san, Úc Châu