Nguyễn Thuyên kiện TVTS – kỳ 17: Vấn đề dịch thuật và những người làm chứng

28 Tháng Mười Hai, 2009 | Kiện tụng

 

 

Tiểu sử của Nguyễn Thuyên, hình chụp từ cuốn Bộ Mặt Thật HCM tái bản năm 2000, trang 549, cuốn sách bị cho là đạo văn, chôm chỉa từ sách khác. Trong tiểu sử này Nguyễn Thuyên ghi “Tốt nghiệp Đại học Khoa Học” (đoạn thứ ba), nhưng TVTS nói ông ta chưa tốt nghiệp đại học như ông ta nổ.

 

 

Sau vấn đề sự tin tưởng, luật sư muốn nói về phương pháp luận (methodology)  mà ông Âu dùng trong việc dịch thuật.

 

Ông Âu nói rằng dịch là một nghệ thuật và như vậy là nói về sự giải thích, diễn dịch (interpretation). Luật sư  muốn đề nghị với bồi thẩm đoàn rằng ông Âu đã đi quá xa lãnh vực diễn dịch một cách hợp pháp (legitimate interpretation) với mục đích là phiên dịch, mà đã đi vào lãnh vực diễn dịch theo ý cá nhân ý nghĩa căn bản của các bài báo này.

 

Luật sư nói ông Âu đã vượt qua lằn ranh khi ông ta đồng ý với luật sư rằng ông đã cố gắng tìm cho ra những ý nghĩa tiềm ẩn, dấu kín, một chuyện mà ông cho là quan trọng. Ông dựa vào những cảm xúc mà người ta có khi đọc. Ông Âu cũng đồng ý là ông đã cố gắng để tìm cho ra cái gì ẩn tàng trong bài báo khi dịch và như vậy ông đã thêm từ “books” trong việc dịch bài báo thứ hai.

 

Luật sư muốn nhắc lại với bồi thẩm ông Âu là người quyết đoán (dogmatic), trở thành người thích biện hộ cho một mục tiêu mặc dầu cuối cùng ông có vài sự nhượng bộ. Luật sư đề nghị bồi thẩm nên xem xét những bằng chứng của ông Âu với mức độ hoài nghi nào đó. Luật sư McHugh nói ông không gọi phiên dịch viên của ông ra chẳng có nghĩa là bồi thẩm sẽ tự động chấp nhận bất cứ cái gì ông Âu đưa ra cho họ, đặc biệt ở những điểm mà ông Âu sau đó nhượng bộ.

 

Luật sư yêu cầu bồi thẩm coi lại đoạn 4 của bản dịch thứ nhất liên quan đến từ “professor”. Cả 7 người ra làm chứng đều nói “professor” được dịch từ chữ tiếng Việt “giáo sư”. Vấn đề quan trọng trong việc nhận diện là hạng người có thể được gọi là “giáo sư” trong tiếng Việt rất rộng rãi hơn loại người được gọi là “professor” bằng tiếng Anh tại Úc.

 

Tại Úc, professor là một học hàm rất cao thường dành cho người đứng đầu các đại học và một số nhỏ những người trong các phân khoa. Trong khi đó mọi nhân chứng trong vụ này đều đồng ý “giáo sư” chỉ là một người có bằng đại học, dạy học, có thể là một giáo viên trung học (high school teacher). Nguyên đơn chưa bao giờ là giáo sư đại học, chỉ là một hiệu trưởng trung học.

 

Vấn đề là hạng người được mô tả là “giáo sư” rất rộng hơn là hạng người mà chúng ta nghĩ là “professor”. Vì thế, nó rất quan trọng liên quan đến sự nhận diện và sự hợp lý khi nhận diện.

 

Luật sư nhắc lại với bồi thẩm đoàn ông Âu đã dịch từ “đại bịp” khi cho rằng “bịp” có thể có nghĩa là “cheating” và ông đã dịch “Cử Bịp” là “Cheating Bachelor” ở cuối đoạn 6 của bài báo thứ nhất.

 

Nhưng ông Âu cũng nói “Bịp” cũng có nghĩa là “fraudster”, “deceiver”. Mặc dầu tất cả những chữ đó không phải là những đồng nghĩa toàn hảo, chúng có nhiều nghĩa khác nhau và luật sư đề nghị dịch cheating cho bớt trầm trọng hơn fraud.

 

Về chữ “đại” mặc dầu ông Âu đồng ý có nghĩa là “great” nhưng ông không chấp nhận đề nghị dịch đại bịp thành “great fraud” vì như vậy sẽ là loại tiếng Anh tồi (bad English), vì nói như vậy là có tính cách tích cực (positive)  trong khi ông Âu  nghĩ nó tiêu cực.

 

Luật sư đề nghị đấy là lý do để bồi thẩm đoàn có lý do để lưỡng lự về khả năng tiếng Anh của ông Âu về ẩn ngữ (enigmatic English) bởi vì sẽ có thể hoàn hảo khi nói “Richard Nixon was the greatest crook who ever lived” (Richard Nixon là tay đại bịp xưa nay chưa từng có). Đó không phải là một tuyên bố có tính cách tích cực mà là một lời phê bình nặng nề nhất mà người ta làm đối với Tổng thống Richard Nixon.

 

Ban đầu ông Âu bác bỏ đề nghị rằng có thể dịch “đại bịp” thành “great cheater” nhưng cuối cùng ông Âu đồng ý.

 

Trong bài dịch của bài báo thứ hai, ông Âu đã đặt để vào bản dịch chữ books số nhiều trong khi ông đồng ý trong bản tiếng Việt không có chữ đó. Ông Âu nói ông thêm chữ books vào cho câu có ý nghĩa.

 

Ông Âu dịch: “content pilfered and copied from other people’s books. Luật sư đề nghị dịch “with content pilfered and copied from other people” mà luật sư cho rằng là tiếng Anh hay ho (good English), bởi đâu cần thêm vào danh từ books.

 

Khi nói “copied from other people” có nghĩa là lấy cái ý tưởng hơn là lấy chi tiết từ những cuốn sách cá biệt nào đó. Đó là sự khác biệt. Lấy ý tưởng của ai đó mà phát triển là chuyện bình thường trong các bài luận văn trên đại học. Nhưng sẽ là đạo văn (plagiarism) nếu lấy từng chữ một trong sách của ai đó.

 

Về từ “đại bịp” ở đoạn 5 bài báo thứ nhất,  ông Âu dịch “the worst kind of fraudster” hay trong đoạn 6 “blatant fraudster”. Luật sư ban đầu đề nghị dịch “skilful cheater” và sau đó đề nghị dịch “great cheater” thì ông Âu đồng ý có thể chấp nhận được.

 

Luật sư đề nghị khi vào phòng nghị luận, bồi thẩm đoàn có thể nghĩ rằng có sự khác biệt giữa “great cheater” và “great fraudster” mà cũng có thể nghĩ không khác bao nhiêu, nhưng vấn đề mà luật sư muốn đưa ra cho bồi thẩm đoàn xem xét những ám chỉ đó được chuyên chở toàn bộ đối với nhân vật Cử Bịp. Ông nói hai cách dịch vừa rồi đều đúng từ tiếng Việt nhưng bồi thẩm đoàn phải xét toàn bộ bản văn liên quan đến bằng chứng về Cử Bịp.

 

Và đó là những điều mà luật sư nói ông muốn trình bày với bồi thẩm đoàn về sự phiên dịch. Bây giờ ông muốn nói với bồi thẩm đoàn về những vấn đề xác thật (factual issues) liên quan đến sự nhận diện.

 

Ông McHugh nói ông bạn Evatt của ông qua suốt phiên xử và chắc chắn trong bài diễn văn của ông đã cho bồi thẩm cái cảm giác đấy là một trường hợp rất thẳng thắn và trực tiếp (straightforward) đối với việc nhận diện. Nhưng nếu trực tiếp như thế thì tại sao ông Evatt  phải gọi đến 5 nhân chứng để làm một chuyện đơn giản như thế?

 

Luật sư McHugh muốn nói với bồi thẩm đoàn về sự tin tưởng (credit) đối với tất cả những nhân chứng này. Sự tin tưởng không có nghĩa là nghĩ ai đó nói dối. Có thể rằng bồi thẩm chỉ không thỏa mãn với những bằng chứng mà họ đưa ra. Luật sư McHugh nói ông sẽ nói qua từng nhân chứng và mỗi người dự trù mất khoảng 5 phút.

 

Trước hết là nhân chứng Nguyễn Thế Phong.

 

Khi làm chứng về bài báo thứ nhất, ông Phong nói một trong những điều ông dựa vào là bài báo nói về một người viết một cuốn sách. Nhưng chuyện nói về cuốn sách chỉ xảy ra trong bài báo thứ hai. Nhưng đó không phải là một trong những điều ông Phong dựa vào một cách đúng đắn khi ông ta đọc bài báo phát hành ngày 17.4.2002.  Luật sư nói ông Phong rất lảng tránh khi luật sư đối chất và cuối cùng ông Phong đồng ý nó chẳng ăn nhập gì với bài viết thứ nhất.

 

Luật sư cho rằng rồi đây quan tòa có thể sẽ chỉ thị và hướng dẫn cho bồi thẩm đoàn về điều ông sắp nói sau đây, nhưng theo ông, bồi thẩm đoàn phải tách biệt hai bài báo khi xem xét về sự nhận diện, bởi hai bài báo viết cách nhau 7 tuần lễ. Bồi thẩm đoàn có thể còn nhớ ông Đào Dũng khi làm chứng đã nói ông đã theo dõi xem có bài gì viết về nguyên đơn không. Bồi thẩm đoàn nên quên chuyện đó khi nhận diện đối với mỗi bài báo.

 

Nói về sự tin tưởng ông Nguyễn Thế Phong, luật sư nhắc lại việc ông hỏi ông Phong làm thế nào để Lý Tống làm cho viên phi công lái máy bay tới Sài Gòn, có xảy ra bạo động không, thì ông Phong trả lời Lý Tống phải khuyến dụ ra sao đó để phi công lái tới chỗ Lý Tống muốn. Luật sư nói ông nói như vậy để bồi thẩm biết ai là người mà ông muốn nói tới.

 

Ông Phong trước đó nói ông có viết bài cho tờ báo và luật sư đề nghị ông Phong đã có sự xung khắc cãi cọ (fall out)  với bị cáo thứ hai tức ông Nguyễn Hồng Anh. Ông Phong chống cự nhưng rồi ông cũng đồng ý với luật sư là ông đã không nói chuyện với ông Hồng Anh trong hơn 10 năm qua.

 

Luật sư nói bồi thẩm đoàn nên ghi nhớ về ông Phong và hầu như tất cả những người làm chứng đều đồng ý họ thân thiết với nguyên đơn và muốn nguyên đơn thắng. Điều đó chẳng có gì sai trái cả, nhưng đấy là điều mà bồi thẩm có thể xem xét một cách hợp lý khi đánh giá sự làm chứng của họ.

 

Ông Phong nói ông ta đã đọc tờ cung khai đầu tiên của ông –khai tập thể– trước khi ký và hài lòng với tờ khai, hiểu mục đích của tờ khai dùng trong tiến trình kiện tụng, để các bị đơn biết câu chuyện như thế nào. Tất cả mọi nhân chứng ra làm chứng đều nói như vậy.

 

Bồi thẩm đoàn nên biết rằng bất cứ một người có hiểu biết, biết phải chăng đều làm việc này hết sức thận trọng, bảo đảm ngày tháng đúng và coi đấy là lời chứng của chính họ. Nhưng ông Phong đồng ý đấy không phải do ông làm mà do Luật sư  Hồ làm. Ông Phong đồng ý là ông đã thay đổi ngày tháng của buổi hội thảo từ tháng 3 trở thành ngày 21.4.2002.

 

Luật sư giải thích tại sao ngày tháng quan trọng trong vụ này. Ở đoạn 3 của bài báo thứ nhất nói  về “một độc giả mật báo một tin khá ly kỳ”, có nghĩa là một chuyện chưa được công bố. Và trong đoạn 4 “một buổi hội luận chính trị chính em gì đó sắp được tổ chức ở Melbourne”. Như thế là một chuyện trong tương lai, nên không thể dựa vào đó một cách hợp lý để nhận diện nguyên đơn vì bài báo nói rõ ràng về một chuyện trong tương lai.

 

Khi luật sư hỏi tại sao thay đổi tháng 3  thành ngày 21 tháng 4, ông Phong nói luật sư của nguyên đơn yêu cầu làm rõ một số điểm. Luật sư McHugh  nói bằng chứng này của ông Phong mà ông vừa trình bày mặc dù không giống y chang đối với các nhân chứng khác, nhưng nhìn vào chủ đề liên quan đến ngày tháng, thì rõ ràng đã có sự can thiệp của luật sư nguyên đơn đưa đến sự thay đổi.

 

Luật sư McHugh nói về trường hợp của nhân chứng Lương Minh Hương, một trường hợp khá khác biệt so với những nhân chứng khác mà ông sẽ nói sau.

 

Có một điều quan trọng mà ông muốn nói với bồi thẩm đoàn, đó là sự thân thiết mà họ có với nguyên đơn, nhìn nhận họ muốn nguyên đơn thắng như hầu hết các nhân chứng đã nhìn nhận, một chủ đề mà luật sư McHugh muốn bồi thẩm ghi nhận là vai trò của ông Luật sư  (lê Đình) Hồ trong việc soạn thảo bằng chứng cho tất cả mọi nhân chứng.

 

Một điều luật sư muốn lưu ý bồi thẩm đoàn là ông  Phong đồng ý trong bản cung khai thứ hai của ông  rằng nguyên đơn là người duy nhất nói về một đề tài cá biệt và cuối cùng ông Phong đồng ý rằng  bản khai của ông hướng dẫn sai lạc và sai (misleading and wrong).

 

Luật sư McHugh nói về người chứng sau đó là ông thông dịch viên Xương Dịch Âu mà ông đã nói vừa rồi, bây giờ ông muốn  nói lời chứng của nguyên đơn.

 

Ông nhắc cho bồi thẩm đoàn là khi đó nhân chứng (Nguyễn Thuyên) nói ông ta không phải là nhân chứng mà là người kiện tờ báo. Nguyên đơn chống đối khi bị đặt câu hỏi, tránh né ở một số điểm.

 

Luật sư nhắc bồi thẩm đoàn việc nguyên đơn nói tại sao trong một lúc mà cứ hỏi ông ta hoài một câu hỏi và luật sư cho biết bởi ông ta (nguyên đơn)  chưa trả lời,  mà thật ra ông ấy đã nói “tôi đã trả lời rồi mà”. Và lúc đó, quan tòa đã chỉ thị cho nguyên đơn trả lời một cách trực tiếp hơn.

 

Luật sư McHugh nói nguyên đơn (Nguyễn Thuyên) đã tìm cách tránh né  không phải vì ông ta gặp khó khăn về ngôn ngữ mà bởi vì cái nội dung của bằng chứng khi ông ta trả lời các câu hỏi.

 

Nguyên đơn biết sự quan trọng của việc làm tờ khai, rằng ông ta phải cẩn thận nhưng rồi ông ta nói “tôi hoàn toàn tin tưởng vào luật sư của tôi”.  Như vậy, lại lần nữa chúng ta trở lại chuyện ông (Lê Đình) Hồ là nguồn của các chi tiết.

 

Luật sư McHugh nhắc lại việc nguyên đơn nói ông ta rối trí (confused) trong đợt làm chứng đầu tiên, mà theo luật sư nghĩ, liên quan đến những bản cung khai mà ông ta soạn.

 

Đến đây, quan tòa nói với bồi thẩm đoàn rằng ông và các luật sư cần có chút thời gian để bàn thảo những tình huống mà phiên tòa sẽ diễn tiến và đó là chuyện bình thường. Quan tòa cho phép bồi thẩm đoàn tạm rút lui. (còn tiếp)