Nói chuyện nhà đất ở Melbourne: Căn nhà bạn ở trị giá ra sao?

Ngân sách 2006 với số tiền $47 tỉ đô la mà chính phủ phân phát cho dân chúng trong những năm tới đây quả là một số tiền lớn có thể là  lý do để Ngân hàng Trữ kim Úc một lần nữa tăng lãi suất. Thủ tướng Howard lẫn Tổng trưởng Costello tin rằng việc giảm thuế và miễn thuế cho người trên 60 tuổi rút tiền hưu trí chẳng ảnh hưởng đến lãi suất. Thủ tướng Howard nói việc giảm thuế là để giảm áp lực tăng lương do đó nếu quý vị “nhìn vào cái lô-gích của nguyên nhân và hậu quả thì chẳng thấy có thêm áp lực tăng lãi suất nào xảy ra do hậu quả của ngân sách này”.

 

Tổng trưởng Costello nói việc giảm thuế và thay đổi chính sách quỹ hưu trí sẽ khuyến khích người ta đầu tư trong tương lai.

 

 

Nhưng chuyên gia kinh tế Andrew Mitchell của Commsec nói rằng thiên hạ sẽ tiêu tiền tiết kiệm do giảm thuế  bất kể sự cố vấn của tổng trưởng Ngân khố. Như ông này đồ đoán thì thiên hạ sẽ tiêu lộc thuế giảm của năm nay còn lẹ hơn năm ngoái nữa.

 

Và cuối cùng,  kinh tế gia trưởng của ngân hàng National là ông Alan Oster nói ông tin rằng việc tăng thuế sẽ gia tăng nguy cơ Ngân hàng Dự trữ Úc lại tăng lãi suất.

Với người Úc, việc một đợt tăng lãi suất trong 14 tháng qua là chuyện đáng lo, là đề tài mà Thụy Văn tôi đã bàn trong số báo cách đây hai tuần.

 

Nhưng bạn có biết rằng tại Hoa Kỳ, trong vòng 2 năm  qua đã có 16 lần  Ngân hàng Dự trữ Liên  bang tăng lãi suất không? Lần  mới nhất là vào tuần trước, nâng lãi suất  lên tới 5%.

 

Mít tộc bên Mỹ cũng như ở Úc đều mê mết cái mục đầu tư vào địa ốc nên cứ mỗi lần  lãi suất tăng, thì cái lo sợ trả nợ hay bị ngân hàng xiết nhà sẽ ám ảnh làm cuộc sống bớt vui. Nhưng bạn đọc và Thụy Văn tôi đã sống cả hai thập niên tại Úc, chứng kiến bao nhiêu lần lãi suất lên xuống, có khi lên tới 17% như dưới thời chính phủ  Lao động Bob Hawke, nhưng rồi mọi chuyện đâu vào đó—vẫn có cái mái che nắng mưa,  cái nhà hay apartment đầu tư.  Đi đâu cũng nghe chuyện nhà cửa, đầu tư địa ốc. Chuyện người này có hai ba căn, người kia có chục cái flat; ông bà nọ có hai chục cái nhà trọ cho thuê, ông bà kia về Việt Nam xây nhà, khách sạn.  Địa ốc là đề tài luôn hấp dẫn, và bạn cùng Thụy văn tôi sẽ bàn hay sẽ đầu tư vào địa ốc cho đến khi mình vào nằm trong cái nhà đời đời ở… nghĩa địa, mới thôi!

 

Vậy hãy tạm bỏ qua mấy cái vụ lãi suất đứng, lãi xuất tăng mà đi một vòng tham quan nhà cửa ở những vùng có người Việt sinh sống, đầu tư để xem giá cửa nhà đất  hiện nay ra sao, trong quá khứ đã lên xuống bao nhiêu, và trong tương lai sẽ như  thế nào.

 

Thụy Văn tôi bắt đầu từ Richmond, nơi từng được mệnh danh là Tiểu Sài Gòn bởi vì là nơi những người Việt tị nạn đầu tiên đến định cư, mở tiệm buôn bán và biến con đường Victoria Street trở thành khu ăn uống Việt Nam được người Úc biết tiếng và nói đến nhiều nhất.

 

Richmond:

 

Thuở Thụy Văn tôi còn thích ở nhà thuê và nếu có tiền thì mua xế láng, nhậu nhẹt, làm những chuyện thiên hạ coi ruồi bu nhưng mình lại thấy hạnh phúc, một căn nhà hai phòng ngủ ở một nơi được coi là cho người giàu – (Richmond đọc trại từ richman?)– giá chỉ khoảng $25,000. Một căn nhà gỗ double-front ba phòng ngủ vào giữa thập niên 1980 giá  cũng khoảng $60,000. Nhưng cái khu Richmond nằm sát nách trung tâm thành phố, cùng một biên giới với East Melbourne, vốn là nơi sinh sống của di dân gốc Hy Lạp, nơi có nhiều hãng xưởng,  ngày nay đã được coi là khu up-market dành cho giới trung lưu trở lên, nơi mà những thanh niên có nghề chuyên môn, những cặp vợ chồng trẻ có lợi tức  cao tìm đến sinh sống, vì gần phố.

 

Thụy Văn tôi còn nhớ khoảng đầu thập niên 1990 khi nhà cửa bị mất giá thê thảm do lãi suất quá cao (khoảng 17%), thất nghiệp tràn lan (khoảng 11%), một căn nhà gỗ 3 phòng ngủ (tức là phải double front đấy)  giá chỉ còn khoảng $110,000 – $120,000. Thời này nữ hoàng điền kinh Cathy Freeman bắt đầu được biết tiếng nên cô đã từ ở chốn xa xôi nào đó về tậu một căn townhouse ở Richmond và sống chung với anh chàng bồ (nay thì, theo báo chí, người phụ nữ Thổ dân này đã mua nhà và sống tại vùng Kew với lợi tức bạc triệu  mỗi năm đến từ quảng cáo). Vì thế mà Thụy văn tôi mới gọi  khu Richmond là nơi dân trung lưu, trẻ và không có con cái chọn làm nơi dừng chân buổi ban đầu.

 

Nhà 3 phòng ngủ ở Sunshine, chủ muốn bán với giá $350,000 (tháng 1/08)

 

Thời đó, có rất nhiều người Việt sống ở Richmond, nhưng do thấy giá nhà lên cao hay không thích sống trong “khu ổ chuột” chật chội và nhà cửa cũ mèm nên đã thiên di về những vùng có cây xanh ở miền đông hay đông nam. Lại có người đoán được thời cơ nên không những không bán ra mà còn mua vào những căn nhà lẹp xẹp ở đây để cho thuê hay cho bà con tạm trú. Những  ông bà Mít này bây giờ thảy thảy đã trở thành những triệu phú bất động sản rồi. Lý do, như bạn đọc đã thấy trong bảng thống kê đăng trên TVTS số 1050, một căn nhà trung bình ở Richmond bây giờ giá $497,000. Có 3 căn không là triệu phú sao?

 

Theo tài liệu của viện địa ốc tiểu bang Victoria là REIV đăng trong đặc trang Domain số Mùa Thu 2006 của báo The Age thì giá nhà ở Richmond đã tăng 4% trong một năm qua tính từ tháng 2/2005 đến tháng 1/2006, từ  $465,000 lên $483,000.

 

Xin mở ngoặc ở đây: việc công bố giá địa ốc của viện REIV xảy ra từng tháng, từng quý và mốc thời gian của một năm đôi lúc thay đổi.  Nếu bạn  so sánh giá nhà Richmond căn cứ trên dữ kiện trong số báo 1050, sẽ thấy giá nhà khác số báo tuần này, vì giá nhà ở Richmond trong số báo trước dựa vào tháng 11/2005 và tháng 3/2006.

 

Cũng xin dài giòng thêm,  trong một vùng, số nhà bán ra càng nhiều thì sự đánh giá càng chính xác hơn. Bởi vậy trong các bảng thống kê người ta còn ghi ra như  “số nhà bán ra dưới 30 cái” chẳng hạn.  Và khi nói căn nhà trung bình là tính luôn những căn nhà bán bạc triệu và những căn nhà chỉ vài trăm ngàn. Vì thế, chẳng lạ gì nhà trung bình ở Toorak nằm trong khoảng gần $2 triệu một cái bởi vì ở đấy có nhiều nhà vài triệu trở lên trong khi nhà dưới  $1 triệu rất hiếm. Ở Richomd cũng có những căn nhà trên $1 triệu nhưng đa số nhà bán ra thường là vài trăm ngàn nên giá nhà trung bình vẫn còn nằm ở mức gần nửa triệu một cái. Trong một năm qua, căn nhà có giá nhất ở Richmond bán lên tới $1.4 triệu.

 

Chắc bạn cũng muốn biết giá unit ở vùng này? Tin vui là giá unit trung bình đã tăng từ $308,000 (2/2005) lên tới $339,000 (1/2006) tức là tăng lên tới 10.1%, vượt xa giá nhà (house). Trong nửa đầu của thập niên 1990, unit ở Richmond tăng 12.8%.  Nữ hoàng cự ly Cathy Freeman mua unit trong nửa đầu thập niên 1990 và sau đó dời về Kew gần cuối nửa thập niên sau, chắc cũng đã kiếm được mớ tiền lời nhờ unit tăng? Người đời nói kẻ giàu cứ giàu thêm là thế.

 

Vùng đất của dân  lao động ngày xưa nay đã trở thành nơi giúp cư dân hái ra tiền.  Bạn cứ đi một vòng ở Richmond, như trên đường Elizabeth  hay Barker  nằm song song với đường Victoria Street mà xem. Những  “căn nhà ổ chuột”, bé tí ti đã được người ta mua, giật sập và xây thành 2 căn townhouse hai tầng hay những unit nhỏ xinh xắn và bán ra với giá cũng tới gần nửa triệu: mua một bán ra hai (thấy vậy nhưng không hẳn vậy, nghĩa là không dễ ăn như  người ta kể Thụy Văn ghi ra đây đâu nhé).

 

Nhà cửa ở Richmond trong nửa thập niên đầu 1990 mỗi năm tăng 9.2%, vượt xa lãi suất ngân hàng thời gian đó. Năm qua, với giá nhà tăng lên 4%,  một căn nhà cho thuê lợi tức thường từ 3% đến 4% so với vốn, cũng có thể bù    cho tiền lời ngân hàng, dù ông Thống đốc Macfarlane mới cho tăng lãi suất vào đầu tháng.

 

Những bạn đầu tư vào địa ốc Richmond cũng nên biết trong năm qua, tỉ lệ nhà đưa ra bán đấu giá (auction) đã được bán (sold) với tỉ lệ 74.5%,  là tỉ lệ cao. Nói theo ngôn từ Mít tộc là bán chạy như tôm tươi.

 

Springvale:

 

Nếu trí nhớ Thụy Văn tôi còn tốt thì sau Richmond, người Việt tị nạn thuở ban đầu kéo nhau ra sống ở vùng đông nam Melbourne. Lý do dễ hiểu là ở đó có những hostel dành cho di dân như   Enterprise (vùng Springvale) và East Bridge (Nunawading/Mitcham?).  Nhiều người tị nạn không thiên di tới Richmond bởi vì cảnh đẹp và xanh tươi của vùng đông nam hớp hồn họ khi họ còn sống trong các trung tâm dành cho di dân.  Springvale trở thành trung tâm thứ hai của người Việt ở vùng phía đông và đông nam. Và đến nay, người Việt ở Springvale nói riêng và vùng đông nam nói riêng có dân số đứng hàng thứ hai sau Footscray và vùng miền tây Melbourne.

 

Trong bài viết này, Thụy Văn tôi sẽ chọn  thời điểm so sánh nhà cửa là tháng 2/2005  và tháng 1/2006. Và khi nói giá cả năm 2005 và 2006, xin bạn đọc lưu ý là nói về thời gian đó.

 

Giá nhà ở Sprigvale đã tăng từ $243,000  lên $258,000 trong thời gian từ năm 2005 đến 2006, tức tăng 6.2% trong khi đó giá unit lại giảm từ  $235,000 xuống còn $213,000  (-9.4%).

 

Trong thời gian nửa đầu thập niên 1990, giá nhà mỗi năm tăng trung bình 10%  và căn nhà cao nhất tại thủ phủ miền  đông của người Việt được bán ra trong năm 2005 là $440,000.  Tỉ lệ nhà đấu giá trong năm vừa rồi là 64.3%.

Springvale South: Không hiểu tại sao giá nhà ở vùng phía nam của Springvale như  Springvale South lại cao hơn. Có lẽ xa “nơi phồn hoa đô hội” thì cuộc sống “an toàn”  khiến thiên hạ thích hơn, làm giá nhà lên cao? Bạn nên hỏi những người hiện đang sống ở khu vực này. Cũng nên biết nhà ở Springvale South trong năm qua đã từ $237,000 lên $299,000  tức tăng đến +26.1%.  Căn nhà được bán với giá cao  nhất trong năm là $390,000.

 

Còn unit thì sao?  Lạy Chúa tôi, những người có unit tại Springale South phải cám ơn trời đất vì giá unit đã tăng từ $195,000 lên $280,000.  Một năm mà tăng 43.6% thì  quả rằng người có một hai unit ở đây đang trúng số địa ốc.

 

Footscray:

 

Sau Richmond và Springvale, Footscray là địa danh nổi tiếng của người Việt tị nạn đầu thập niên 1980 bởi vì ở đấy có một trung tâm tiếp nhận di dân mới đến: Midway Hostel. 

 

Thụy Văn tôi ngày đó cùng bạn bè vào Midway Hostel để vui chơi văn nghệ, mời đồng hương tham gia các phong trào yểm trợ kháng chiến và thấy rằng có nhiều người thay vì  đến “thủ đô tị nạn” Richmond hay xuống Springvale, đã chọn các khu ngoại ô vùng miền tây làm quê hương thứ hai, dù biết rằng đấy là khu vực của giới lao động, đồng khô cỏ cháy (vì không có nhiều cây cối),  không khí không tốt (gần các kho chứa hóa chất, nơi trước kia có máy lọc dầu hỏa).

 

Thời đó nghe ai sống ở Footscray thì người ta có cảm tưởng như rằng họ đã chọn lầm đường hay không có sự chọn lựa nào khác, hoặc những kẻ định cư ở đấy là những kẻ kém “may mắn”.

 

 Một căn nhà “tiêu biểu” ở Kew với 4 phòng ngủ, rao đấu giá từ $2.2 đến $2.8 triệu (tháng 10/07)

Nhưng chỉ một thời gian ngắn chưa đầy một chục năm sau, Footscray đã trở thành “thủ đô thương mại” của người Việt ở thành phố Melbourne. Nếu nói Cabramatta là thủ phủ  của người Việt  ở Sydney thì Footscray chính là thủ phủ của người Việt ở Melbourne.  Sự phát triển của người Việt ở Footscray nhanh đến độ chóng mặt.

 

Chiếm hết đường  Barkly và Leeds, dân tị nạn làm ăn nên thừa thắng xông lên chiếm các con đường lân cận như  Nicholson, Droop v.v…  Phải nói rằng không nơi nào ở Melbourne có một khu phố lớn, nhộn nhịp và đi lại tiện lợi như  ở Footscray.  Khu Cabramatta ở Sydney là một khu vực biệt lập của người Việt nằm,  “hẻo lánh”  và cách xa trung tâm thành phố Sydney. Trái lại, Footscray nằm sát  nách thành phố Melbourne, cách xa khu thương mại CBD chừng vài cây số và là trục lộ giao thông của cả khu miền tây Melbourne.

 

Người Úc lúc này khi nói đến khu người Việt dù với ý tốt hay ý xấu, đều nhắc nhở ngay tới Footscray. Kể từ đầu thập niên 1990, Footscray được xem là nơi có đông người Việt sinh sống nhất. Và theo “thống kê” miệng của Mít tộc, khu miền tây chiếm khoảng 2/3  trong khoảng 60,000 – 70,000 người Việt hiện đang định cư ở Melbourne.

 

Từ  Richmond đi Springale mất khoảng 26 cây số trong khi qua Footscray, đường chỉ dài khoảng 12 cây.  Footscray đã trở thành vùng đất  lành  đối với người Việt, vì thế mà khoảng 20 năm sau, người Việt đã tây tiến xa hơn, đến Sunshine và rồi St Albans để ngay nay vùng đất xa xôi cách Richmond khoảng 25 cây số như  St Albans là nơi không những có nhiều người Việt sinh sống mà phố xá người Việt còn đẹp và sầm uất không thua gì Footscray.

 

Cuối thập niên 1980, một căn nhà trung bình ở Footcray khoảng năm sáu chục ngàn.  Nhiều người cho rằng mua nhà ở Footscray sẽ không có lời vì nhà sẽ không lên giá bằng Richmond. Nhưng nhà đất ở đâu cũng vậy, sẽ vẫn luôn luôn có giá và tăng nhanh hay chậm là tùy mức cầu. Bạn có thể xây thêm lầu nhưng không thể xây thêm đất, không làm cho đất rộng ra được. Đất luôn luôn có giá vì thượng đế chỉ dựng nên chừng ấy đất trong khi lại chúc phúc cho con người sinh sôi nẩy nở như sao trên trời, như các dưới biển…

 

Nhà ở Footscray trong một năm qua đã từ  $300,000 lên  $312,000  tức tăng 4%. Trong nửa đầu hập niên  1990, mỗi năm giá nhà tăng khoảng 10.8%. Tỉ lệ nhà đem đấu giá bán được là 65.4%.  Căn nhà bán cao nhất Footscray trong năm qua là $725,000.  Mấy năm trước đây Thụy Văn tôi trong một bài viết về địa ốc có đưa tin một căn nhà ở Footscray bán trên  $1 triệu.

 

Còn nunit thì sao? Trong một năm qua, unit ở đây đã từ  $185,000 xuống còn $178,000  tức mất giá (-) đến 3.8%. Tuy nhiên trong nửa đầu thập niên 1990, cứ mỗi năm unit tại đây tăng 11.1%.  Cũng chẳng tệ, phải không bạn?

 

Footscray West:

Chếch về phía tây một chút, nhà ở  Footscray West chỉ tăng từ  $302,000 lên $302,500  tức khoảng 0.2% là con số không đáng kể. Nhưng trong nửa đầu thập niên 1990 giá nhà tăng 10.3% mỗi năm. Căn nhà bán đấu giá cao nhất  $595,000.

 

Giá unit ở đấy từ 164,000 lên $165,000 tức tăng khoảng 0.7% là cũng không đáng kể. Tuy nhiên trong nửa đầu thập niên 1990, giá unit mỗi năm tăng 12.2%, là một mức tăng trưởng đáng kể. Bất cứ ai mua nhà hay unit từ đầu năm 1990 đến nay đều lời khẳm.

 

St Albans:

 

Trong thời gian qua, khi viện địa ốc REIV công bố  giá cả địa ốc các vùng, cùng với Melton, St Albans được mô tả là nơi nhà cửa vừa túi tiền nhất. Nói nôm na là nơi giá nhà rẻ nhất. Rẻ nhất lúc này nhưng chục năm sau có thể khác đấy. Thụy Văn tôi nghĩ  đã có những người Việt ở trong vùng này nắm được tình hình và đã có thể mua một vài căn cất làm của rồi đấy. Trong khi không thể có bạc triệu để đầu  tư ở những vùng như  Kew, Hawthorn, Balwyn, Camberwell hay cả nửa triệu đầu tư vào vùng Richmond, Abbottsford, Collingwood hay gần nửa triệu đầu tư  ở Footscray, Yarraville thì tại sao lại không thử  thời vận ở St Albans, nơi giá nhà còn thuộc hàng top 10 rẻ nhất Melbourne?

 

Nhà ở đây trong năm qua đãtừ  $216,000 lên $219,000  tăng khoảng 1.4%.  Tỉ lệ tăng hàng năm trong nửa đầu thập niên 1990 là 11.6%. Tuy nhiên  tỉ lệ nhà đưa lên thị trường bán đấu giá được chỉ ở mức 44.7% có nghĩa mức bán ra hơi chậm. Căn nhà giá cao nhất trong vùng này được bán ra ngoái ngoái với giá $375,000. Một căn nhà giá cả như thế chắc hẳn phải là nhà lầu 2 tầng và tương đối mới.

Căn nhà đấu giá ở Toorak cuối năm 2007, không đề giá phỏng chừng, nhưng phải là nhiều triệu

 

Unit ở đây trong năm qua bị mất giá, từ  $199,000 xuống còn $192,000 tức mất giá đến 3.5%. Tuy nhiên, trong năm năm đầu của thập niên 1990, unit ở St Albans mỗi năm tăng giá 11.5%. Những người mua nhà/ unit  từ đấy  chắc chắn sẽ không có lý do gì để kêu ca!

 

St Albans East là nơi giá nhà trong năm 2005 trung bình là $240,000 tuy nhiên viện địa ốc REIV không đưa ra các dữ kiện khác liên quan đến vùng này.

Thụy Văn tôi vừa điểm qua “bốn vùng chiến thuật” nơi Việt tộc định cư, làm ăn phát đạt và sắm nhà mua unit lại còn dư  trong dư ngoài để đầu tư  và hầu  như đa số  đều đã hưởng lợi nhờ sự bùng nổ địa ốc trong 15 năm qua.  Bài viết cũng đã khá dài, Thụy Văn tôi xin rút ngắn lại bằng cách chỉ làm bảng thống kê đơn giản.

 

Do khuôn khổ nhỏ hẹp của TVTS, Thụy Văn xin bạn đọc theo dõi giá địa ốc ở mỗi vùng bằng hình thức như sau, theo thứ  tự từ bên tay trái.

 

– Giá nhà (tính bằng trăm ngàn) năm 2005, 2006, tỉ lệ tăng giảm trong năm qua, tỉ lệ tăng giảm trong nửa đầu thập niên 1990.

 

– Giá unit năm 2005, 2006, tỉ lệ tăng giảm trong năm qua, tỉ lệ tăng giảm nửa đầu thập niên 1990.

 

Tên ngoại ô:

 

Nhà/unit, giá năm 2005; 2006 (tăng/giảm) (tăng/giảm trong nửa đầu thập niên 1990)

 

Giá nhà cao nhất bán ra trong năm.

 

Abbotsford:

Nhà: $410; $429 (+4%) (+7.7%)

Unit: $400; $403 (+ 0.6%) (+7.3%)

Nhà cao nhất: $751,000

 

Albert Park:

Nhà: $700; $670 (-4.3%) (+9.2%)

Unit: $563; $458 (-18.7%) (+4.7)

Nhà cao nhất: $4,610,000

 

Altona:

Nhà: $335; $349 (+4.1%) (+10.9%)

Unit: $300; $272 (-9.2%) (+7.5%)

Nhà cao nhất: $1,800,000

 

Altona Meadows:

Nhà: $255; $260 (+2%) (+10.2)

Unit: $221; $124 (-3.4%) (+8.1)

Nhà cao nhất: $480,000

 

Ardeer:

Nhà: $201; $195 (-3%) (+7.6%)

Nhà cao nhất: $410,000

 

Ascot Vale:

Nhà: $432; $425 (-1.6%) (+7.7%)

Unit: $278; $270 (-2.7%) (+5.9%)

Nhà cao nhất: $1,080,000

 

Avondale Heights:

Nhà: $317; $315 (-0.5%) (+10.1%)

Unit: $293; $280 (-4.3%) (+11.2%)

Nhà cao nhất: $880,000

 

Balwyn:

Nhà: $660; $778 (+17.8%) (+11.%1)

Unit: $420; $406 (-3.3%) (+8.5%)

Nhà cao nhất: $2,518,000

 

Balwyn North:

Nhà: $582; $609 (+4.7%) (+10.5%)

Unit: $440; $513 (+16.5%) (7.3%)

Nhà cao nhất: $1,640,00

 

Bayswater:

Nhà: $260: $276 (+6%) (+14.5%)

Unit: $199; $250 (+25.6%) (+14.5%)

Nhà cao nhất: $425,000

 

Blackburn:

Nhà: $$17; $420 (+0.7%) (+11.6%)

Unit: $318; $330 (+3.8%) (+10%)

Nhà cao nhất: $1,450,000

 

Blackburn North:

Nhà: $362; $357 (-1.3%) (+11.2%)

Unit: $$281; $305 (+8.5%) (+12.1%)

Nhà cao nhất: $606,000

 

Balckburn South:

Nhà: $380; $395 (+3.9%) (+12.4%)

Unit: $$328; $368 (+12.2%) (+13.5%)

Nhà cao nhất: $675,000

 

Box Hill:

Nhà: $455; $485 (+6.6%) (+11.2%)

Unit: $$262; $270 (+3.1%) (+11%)

Nhà cao nhất: $1,000,000

 

Box Hill North:

Nhà: $390; $403 (+3.4%) (+11.7%)

Unit: $285; $346 (+21.4%) (+9.5%)

Nhà cao nhất: $810,000

 

Box Hill South:

Nhà: $390; $410 (+5.1%) (+10.4%)

Unit: $368; $312 (-15.2%) (+10.1%)

Nhà cao nhất: $772,000

 

Braybrook:

Nhà: $242; $219 (-9.7%) (+12.5)

Unit: $235; $224 (-4.7%) (+10.3%)

Nhà cao nhất: $425,000

 

Brighton:

Nhà: $1040; $1100 (+5.8%) (+12%)

Unit: $500; $602 (+20.4%) (+15.6%)

Nhà cao nhất: &,610,000

 

Brighton East:

Nhà: $657; $724 (+10.2%) (+12.%)

Unit: $525; $503 (-4.3%) (+11.2%)

Nhà cao nhất: $1,700,000

 

Broadmeadows:

Nhà: $200; $198 (-0.9%) (+13.6%)

Unit: $214; $210 (-1.9%) (không rõ)

Nhà cao nhất: $308,000

 

Brunswick:

Nhà: $400; $402 (+0.5%) (+9.9%)

Unit: $270; $235 (-13.1%) (+8.6%)

 

Brunswick East:

Nhà: $$436; $420 (-3.7%) (+9.2%)

Unit: $355; $349 (-1.6%) (+13.6%)

Nhà cao nhất: $835,000

 

Brunswick West:

Nhà: $$400; $427 (+6.7%) (+9.9%)

Unit: $225; $210 (-6.7%) (+10%)

Nhà cao nhất: $1,250,000

 

Bulleen:

Nhà: $419; $422 (+0.7%) (+10.2%)

Unit: $328; $350 (+6.5%) (+7.1%)

Nhà cao nhất: $1,065,000

 

Bundoora:

Nhà: $290; $305 (+5.2%) (+11.2%)

Unit: $234; $246 (+5%) (+9.6%)

Nhà cao nhất: $633,000

 

Burwood:

Nhà: $410; $448 (+9.1%) (+10.1%)

Unit: $340; $373 (+9.8%) (+11.6%)

Nhà cao nhất: $1,050,000

 

Burwood East:

Nhà: $352; $360 (+2.4%) (+10.3%)

Unit: $330; $319 (-3.4%) (+11.4%)

 

Camberwell:

Nhà: $723; $730 (+1%) (+9.6%)

Unit: $368; $350 (-4.9%) (+7.4%)

Nhà cao nhất: $3,075,000

 

Canterbury:

Nhà: $940; $1003 (+6.6%) (+11%)

Unit: $470; $361 (-23.1%) (+6.5%)

Nhà cao nhất: $4,325,000

 

Carlton:

Nhà: $472; $535 (+13.5%) (+7.7%)

Unit: $315; $315 (+0%)  (+6.4%)

Nhà cao nhất: $2,250,000

 

Carlton North:

Nhà: $571; $580 (+1.6%) (+8%)

Unit: $285; $330 (+15.8%) (+14.5)

Nhà cao nhất: $2,900,000

 

Carnegie:

Nhà: $480; $500 (+4.2%) (+9.3%)

Unit: $268; $272 (+1.5%) (+13.4%)

Nhà cao nhất: $907,000

 

Caroline Springs

Nhà: $275; $289 (+5.1) (+8.7%)

Nhà cao nhất: $480,000

 

Caulfield:

Nhà: $690; $660 (-4.3%) (+10.1%)

Unit: $407; $379 (-7%) (+11.7%)

Nhà cao nhất: $2,100,000

 

Chadstone:

Nhà: $346; $364 (+5.4%) (+10.4%)

Unit: $329; $328 (-0.3%) (+11.6%)

Nhà cao nhất: $691,000

 

Clayton:

Nhà: $320; $332 (+3.7%) (+12.4%)

Unit: $258; $278 (+7.6) +10.2%)

Nhà cao nhất: $600,000

 

Clifton Hill:

Nhà: $491; $510 (+3.9) (+9.7%)

Unit: $319; $440 (+38.1%) (+16.5%)

Nhà cao nhất: $1,400,000

 

Coburg:

Nhà: $350; $363 (+3.7%) (+8.7%)

Unit: $285; $294 (+3.2%) (+13.7%)

Nhà cao nhất: $1,120,000

 

Collingwood:

Nhà: $412; $384 (-6.8%) (+8.95)

Unit: $395; $346 (-12.4%) (+3.6%)

Nhà cao nhất: $630,000

 

Coolaroo:

Nhà: $$190; $191 (+0.5%) (+11.3%)

Nhà cao nhất: $318,000

 

Croydon:

Nhà: $275; $295 (+7.3%) (+12.7)

Unit: $232; $248 (+6.8%) (+11.7%)

Nhà cao nhất: $935,000

 

Dandenong:

Nhà: $228; $233 (+2.3%) (+12.8%)

Unit: $170; $165 (-3.2%) (+10.9%)

Nhà cao nhất: $500,000

 

Deer Park:

Nhà: $210; $219 (+4.2%) (+11.1%)

Unit: $189; $213 (+12.9%) (+20.9%)

Nhà cao nhất: $365,000

 

Docklands (bến tàu cũ):

Unit: $433; $440 (+1.4%) (không có)

Unit cao nhất: $315,000

 

Doncaster:

Nhà: $435;$441 (+1.4%) (+10.3%)

Unit: $$333; $388 (+16.5%) (+12.8%)

Nhà cao nhất: $925,000

 

East Melbourne:

Nhà: $$988; $1340 (+35.7%) (+15.9)

Unit: $$350; $398 (+13.6%) (+8.2%)

Nhà cao nhất: $2,250,000

 

Eltham:

Nhà: $385; $409 (+6.1%) (+9.9%)

Unit: $$293; $316 (+8%) (+11.9%)

Nhà cao nhất: $1,400,000

 

Elwood:

Nhà $698; $755 (+8.2%) (+10.6)

Unit: $330; $357 (+8.2%) (+9.3%)

Nhà cao nhất: $2,950,000

 

Endeavour Hills:

Nhà: $245; $255 (+4.1%) (+10.2%)

Unit: $223; $215 (-3.7%) (không có)

Nhà cao nhất: $525,000

 

Epping:

Nhà: $255; $262 (+2.7%) (+11.4%)

Unit: $235; $245 (+4.3%) (+13%)

Nhà cao nhất: $1,500,000

 

Essendon:

Nhà: $530; $559 (+.5%) (+10.2%)

Unit: $271; $287 (+6%) (+11.8%)

Nhà cao nhất: $2,200,000

 

Fitzroy:

Nhà: $505; $500 (-1%) (+(.2%)

Unit: $376; $391 (+3.9%) (+10.3%)

Nhà cao nhất: $1,900,000

 

Flemington:

Nhà: $381; $393 (+3.2%) (+9%)

Unit: $$181; $206 (+13.9%) (+11.6%)

Nhà cao nhất: $650,00

 

Frankston:

Nhà: $230; $241 (+4.7%) (+12.5%)

Unit: $$181; $194 (+7.2%) (+17.2%)

Nhà cao nhất: $1,175,000

 

Glen Iris:

Nhà: $650; $710 (+9.2%) (+11.5%)

Unit: $291; $327 (+12.3%) (+11.5%)

Nhà cao nhất: $3,460,000

 

Glen Waverley:

Nhà: $414; $435 (+5.2%) (+12.4%)

Unit: $350; $378 (+8%) (+12.5%)

Nhà cao nhất: $1,000,000

 

Hawthorn:

Nhà: $705; $772 (+9.5%) (+11.6%)

Unit: $296; $308 (+4.1%) (+10.3%)

Nhà cao nhất: $4,000,000

 

Heidelberg:

Nhà: $401; $450 (+12.3%) (+10.6%)

Unit: $295; $290 (-1.7%) (+10.6%)

Nhà cao nhất: $768,000

 

Heidelberg West:

Nhà: $245; $252 (+2.7%) (+11.2%)

Nhà cao nhất: $511,000.

 

Hoppers Crossing:

Nhà: $230; $230 (+0%) (+12.1%)

Unit: $200; $195 (-2.5%) (không có)

Nhà cao nhất: $1,525,000

 

Ivanhoe:

Nhà: $563; $580 (+3%) (+10.3%)

Unit: $326; $302 (-7.3%) (+7.6%)

Nhà cao nhất: $1,401,000

 

Ivanhoe East:

Nhà: $717; $759 (+5.9) (+8.3%)

Unit: $331; $281 (-15.1%) (không có)

Nhà cao nhất: $2,450,000

 

Keilor:

Nhà: $372; $408 (+9.5%) (+9.8%)

Unit: $394; $359 (-8.8%) (không có)

Nhà cao nhất: $1,040,000

 

Keilor Downs:

Nhà: $273; $65 (-2.8%) (+(8%)

Unit: $215; $239 (+11%) (+11.1%)

Nhà cao nhất : $470,000

 

Kensington:

Nhà: $386; $423 (+9.5%) (+10.2%)

Unit: $330; $322 (-2.3%) (+10.7%)

Nhà cao nhất: $950,000

 

Kew:

Nhà: $810; $805 (-0.6%) (+11.2%)

Unit: $342; $367 (+7.3%) (+8.4%)

Nhà cao nhất: $5,500,000

 

Kew East:

Nhà: $616; $650 (+5.5%) (+11/1%)

Unit: $375; $381 (+1.7%) (+8%)

Nhà cao nhất: $1,300,000

 

Keysborough:

Nhà $251; $266 (+6%) (+13.5%)

Nhà cao nhất: $570,000

 

Lalor:

Nhà: $240; $245 (+2%) (+11.3%)

Unit: $224; $233 (+4%) (không có)

Nhà cao nhất: $452,000

 

Laverton:

Nhà: $191; $188 (-1.7%) (+5.7%)

Nhà cao nhất: $430,000

Maidstone:

Nhà: $288; $296 (+3%) (+11.5%)

Unit: $260; $273 (+4.8%) (+10.6%)

Nhà cao nhất: $500,000

 

Malvern:

Nhà $780; $884 (+13.3%) ( +15.1%)

Unit: $281; $346 (+23.1%) (+9.4%)

Nhà cao nhất: $4,405,000

 

Malvern East:

Nhà: $573; $675 (+17.7%) (+11%)

Unit: $350; $363 (+3.6%) (+9.7%)

Nhà cao nhất: $3,300,000

 

Maribyrnong:

Nhà: $380; $410 (+7.9%) (+7.4%)

Unit: $270;  $270 (+0%) (+10%)

Nhà cao nhất: $1,300,000

 

Melton:

Nhà: $190; $185 (-2.9%) (+10.2%)

Nhà cao nhất $670,000

 

Mentone:

Nhà: $$441; $465 (+5.4%) (+9.2%)

Unit: $267; $270 (+1.1%) (+10.4%)

Nhà cao nhất: $1,175,000

 

Middle Park:

Nhà: $810; $850 (+4.9%) (+7.7%)

Unit: $430; $430 (+0%) (+11.5%)

Nhà cao nhất: $2,400,000

 

Mill Park:

Nhà: $276; $275 (-0.2%) (+8.3%)

Unit: $235; $246 (+4.7%) (không có)

Nhà cao nhất: $588,000

 

Mitcham:

Nhà: $350; $351 (+0.1%) (+12.2%)

Unit: $286; $310 (+10%) (+12.6%)

Nhà cao nhất: $695,000

 

Mont Albert:

Nhà: $625; $641 (+2.6%) (+11.5%)

Unit: $315; $385 (+22.2%) (+11.3%)

Nhà cao nhất: $1,547,000

 

Moonee Ponds:

Nhà: $449; $480 (+7%) (+9.7%)

Unit: $277; $305 (+9.8%) (+8.2%)

Nhà cao nhất: $1,584,000

 

Moorabbin:

Nhà: $362; $390 (+7.7%) (+8.4%)

Unit: $349; $335 (-4%) (+10.5%)

Nhà cao nhất: $531,000

 

Mt Dandenong

Nhà: $310; $340 (+9.7%) (+13.6%)

Nhà cao nhất: $478,000

 

Mt Waverley:

Nhà $410; $430 (+4.9%) (+11.1%)

Unit: $310; $395 (+27.3%) (+11.4%)

Nhà cao nhất: $1,011,000

 

Mulgrave:

Nhà: $295; $320 (+8.4%) (+11%)

Unit: $244; $282 (+15.5%) (+13.3%)

Nhà cao nhất: $620,000

 

Narre Warren:

Nhà: $241; $250 (+3.6%) (không có)

Unit: $187; $191 (+2%) (không có)

Nhà cao nhất: $673,000

 

Noble Park:

Nhà: $239; $236 (-1%) (+13.6%)

Unit: $223; $192 (-13.9%) (+12.3%)

Nhà cao nhất: $468,000

 

North Melbourne:

Nhà: $450; $459 (+2%) (+6.8%)

Unit: $270; $276 (+2.2%) (+10.2%)

Nhà cao nhất: $1,700,000

 

Northcote:

Nhà: $432; $460 (+6.5%) (+10.5%)

Unit: $259; $275 (+6.1%) (+13.9%)

Nhà  cao nhất: $1,750,000

 

Nunawading:

Nhà: $332; $340 (+2.4%) (+12.3%)

Unit: $265; $253 (-4.6%) (+9.4%)

Nhà cao nhất: $538,000

 

Oakleigh:

Nhà: $354; $390 (+10.1%) (+9.3%)

Unit: $270; $274 (+1.4%) (+5.5%)

Nhà cao nhất: $836,000

 

Parville:

Nhà: $725; $960 (+32.4%) (+13%)

Unit: $280; $310 (+10.7%) (+7.3%)

Nhà cao nhất: $1,840,000

 

Pascoe Vale:

Nhà: $335; $354 (+5.7%) (+11%)

Unit: $256; $276 (+7.8%) (+8.3%)

Nhà cao nhất: $3,610,000

 

Patterson Lakes:

Nhà: $410; $435 (+6.1%) (không có)

Unit: $326; $285 (-12.4%) (không có)

Nhà cao nhất: $1,370,000

 

Port Melbourne:

Nhà: $525; $578 (+10%) (+8.8%)

Unit: $439; $490 (+11.6%) (-2.2%)

Nhà cao nhất: $1,565,000

 

Prahran:

Nhà: $545; $565 (+3.7%) (+9.5%)

Unit: $$310; $315 (+1.6%) (+6.4%)

Nhà cao nhất: $1,890,000

 

Preston:

Nhà: $328; $335 (+2.2%) (+11%)

Unit: $244; $268 (+10%) (+9.9%)

Nhà cao nhất: $655,000

 

Reservoir:

Nhà: $290; $300 (+3.4%) (+11.7%)

Unit: $240; $235 (-2.1%) (+11.5%)

Nhà cao nhất: $700,000

 

Ringwood:

Nhà: $295; $315 (+6.8%) (+13%)

Unit: $245; $253 (+3.3%) (+13.6%)

Nhà cao nhất: $635,000

 

Sandringham:

Nhà: $720; $739 (+2.6%) (+8.6%)

Unit: $465; $441 (-5.2%) (+11.9%)

Nhà cao nhất: $2,210,000

 

South Melbourne:

Nhà: $600; $613 (+2.1%) (+7.5%)

Unit: $$324; $395 (+21.8%) (+5.9%)

Nhà cao nhất: $1,820,000

 

South Morang:

Nhà: $300; $321 (+7%) (không có)

Unit: $257; $263 (+2.1%) (không có)

Nhà cao nhất: $470,000

 

South Yarra:

Nhà: $630; $801 (+27.2%) (+10.1%)

Unit: $$325; $345 (+6.3%) (+4.8%)

Nhà cao nhất: $4,060,000

 

Southbank:

Unit: $315; $345 (+9.5) (-1.9%)

Unit cao nhất: $425,000

 

St Kilda:

Nhà: $550; $620 (+12.7%) (+9.4%)

Unit: $$280; $310 (+10.7) (+7.9%)

Nhà cao nhất: $3,200,000

 

St Kilda West:

Nhà: $810; $850 (+4.9%) (+13.2%)

Unit: $$285; $310 (+8.7%) (+6.2%)

Nhà cao nhất: $2,550,000

 

Sunshine:

Nhà: $240; $240 (+0%) (+11.2%)

Unit: $158; $180 (+13.9%) (+22.7%)

Nhà cao nhất: $340,000

 

Sunshine North:

Nhà: $248; $240 (-3.2%) (+10.3%)

Unit: $209; $198 (-5.5%) (+10.35)

Nhà cao nhất: $450,000

 

Sunshine West:

Nhà: $231; $242 (+4.7%) (+14.9%)

Unit: $215; $203 (-5.6%) (không có)

Nhà cao nhất: $440,000

 

Surrey Hills:

Nhà: $608; $650 (+7%) (+9.9%)

Unit: $360; $388 (+7.6%) (+10.6%)

Nhà cao nhất: $1,476,000

 

Taylor Lakes:

Nhà: $315; $344 (+9.2%) (+8.3%)

Nhà cao nhất: $1,160,000

 

Templestowe:

Nhà: $540; $559 (+3.5%) (+9.1%)

Unit: $320; $375 (+17.2%) (14.3%)

Nhà cao nhất: $2,400,000

 

Templestowe Lower:

Nhà: $407; $440 (+8.2%) (+11.5%)

Unit: $313; $391 (+24.9%) (+13.3%)

Nhà cao nhất: $737,000

 

Thomastown:

Nhà: $254; $260 (+2.6%) (+12%)

Unit: $191; $220 (+15.2%) (không có)

Nhà cao nhất: $468,000

 

Thornbury:

Nhà: $396; $410 (+3.5%) (+10.6%)

Unit: $235; $236 (+0.2%) (+12.9%)

Nhà cao nhất: $1,695,000

 

Toorak:

Nhà: $1703; 1845 (+8.4%) (+14.9%)

Unit: $486; $466 (-4.2%) (+9.2%)

Nhà cao nhất: $8,125,000

 

Tullamarine:

Nhà: $258; $255 (-1.2%) (+9.4%)

Unit: $213; $217 (+1.9%) (+13.5%)

Nhà cao nhất: 352,000

 

Vermont:

Nhà: $345; $347 (+0.6%) (+11.9%)

Unit: $266; $310 (+16.5%) (+14.9%)

Nhà cao nhất: $648,000

 

Wantirna:

Nhà: $313; $320 (+2.2%) (+11%)

Unit: $ $255; $247 (-3.3%) (không có)

Nhà cao nhất: $560,000

 

Warandyte:

Nhà: $529; $570 (+7.8%) (11%)

Nhà cao nhất: $1,810,000

 

Werribee:

Nhà: $220; $212 (-3.6%) (+14%)

Unit: $200; $185 (-7.3%) (không có)

Nhà cao nhất: $540,000

 

West Melbourne:

Nhà: $481; $400 (-16.8%) (+1%)

Unit: $$323; $388 (+20.2%) (+6.2%)

Nhà cao nhất: $825,000

 

Wheelers Hill:

Nhà: $407; $410 (+0.8%) (+6.3%)

Unit: $359; $308 (-14.2%) (không có)

Nhà cao nhất: $1,500,000

 

Williamstown:

Nhà: $522; $583 (+11.6%) (+9.4%)

Unit: $325; 277 (-14.8) (+9.6%)

Nhà cao nhất: $3,910,000

 

Yarraville:

Nhà: $354; $370 (+4.6%) (+10%)

Unit: $284; $323 (+13.7%) (+16.8%)

Nhà cao nhất: $2,200,000

 

Cuối cùng, xin thưa thêm với bạn đọc. Có nhiều ngoại ô  như  Caulfield ngoài vùng trung tâm, còn có vùng Caulfield East, Caulfield North, Caulfield  South và giá cả nhà trung bình cách nhau đôi khi cả vài trăm ngàn như  Caulfield  North một căn trung bình đến $778,000 trong khi ở Caulfield East chỉ $479,000. 

 

Thụy Văn không đủ sức  ghi ra giá cả hàng trăm khu vực trong một bài viết vì sợ đánh máy nhiều sẽ bị tẩu hỏa nhập ma, đánh lộn gây phiền hà bực mình cho bạn đọc. Vả lại, vùng Caulfield chủ yếu có người gốc Do Thái sống. Thụy Văn đã cố gắng ghi ra giá địa ốc các nơi  Thụy Văn nghĩ (hay đoán) có nhiều người Việt sinh sống, dù đó là những vùng mới như  South Morang… Cũng có những vùng biển gần thành phố như  Brighton  hay vùng  đại triệu phú, phó tỉ phú sống như Toorak, nhưng Thụy Văn vẫn ghi ra để gọi là “thông tin” và biết đâu có bạn đọc sẽ vào đó mua một căn làm hàng xóm với Lindsay Fox…

 

Trên đây chỉ là giá cả của những ngoại ô thuộc thủ phủ Melbourne. Còn những vùng nằm ở bờ biển xa thành phố thì sao, đắt hay vẫn còn rẻ? Và những vùng nào, ngoại ô nào thì s ắc tộc nào sống tập trung nhiều. Thụy Văn hẹn bạn đọc một dịp khác.