Tổng trưởng Costello nói việc giảm thuế và thay đổi chính sách quỹ hưu trí sẽ khuyến khích người ta đầu tư trong tương lai.
Nhưng chuyên gia kinh tế Andrew Mitchell của Commsec nói rằng thiên hạ sẽ tiêu tiền tiết kiệm do giảm thuế bất kể sự cố vấn của tổng trưởng Ngân khố. Như ông này đồ đoán thì thiên hạ sẽ tiêu lộc thuế giảm của năm nay còn lẹ hơn năm ngoái nữa.
Và cuối cùng, kinh tế gia trưởng của ngân hàng National là ông Alan Oster nói ông tin rằng việc tăng thuế sẽ gia tăng nguy cơ Ngân hàng Dự trữ Úc lại tăng lãi suất.
Với người Úc, việc một đợt tăng lãi suất trong 14 tháng qua là chuyện đáng lo, là đề tài mà Thụy Văn tôi đã bàn trong số báo cách đây hai tuần.
Nhưng bạn có biết rằng tại Hoa Kỳ, trong vòng 2 năm qua đã có 16 lần Ngân hàng Dự trữ Liên bang tăng lãi suất không? Lần mới nhất là vào tuần trước, nâng lãi suất lên tới 5%.
Mít tộc bên Mỹ cũng như ở Úc đều mê mết cái mục đầu tư vào địa ốc nên cứ mỗi lần lãi suất tăng, thì cái lo sợ trả nợ hay bị ngân hàng xiết nhà sẽ ám ảnh làm cuộc sống bớt vui. Nhưng bạn đọc và Thụy Văn tôi đã sống cả hai thập niên tại Úc, chứng kiến bao nhiêu lần lãi suất lên xuống, có khi lên tới 17% như dưới thời chính phủ Lao động Bob Hawke, nhưng rồi mọi chuyện đâu vào đó—vẫn có cái mái che nắng mưa, cái nhà hay apartment đầu tư. Đi đâu cũng nghe chuyện nhà cửa, đầu tư địa ốc. Chuyện người này có hai ba căn, người kia có chục cái flat; ông bà nọ có hai chục cái nhà trọ cho thuê, ông bà kia về Việt Nam xây nhà, khách sạn. Địa ốc là đề tài luôn hấp dẫn, và bạn cùng Thụy văn tôi sẽ bàn hay sẽ đầu tư vào địa ốc cho đến khi mình vào nằm trong cái nhà đời đời ở… nghĩa địa, mới thôi!
Vậy hãy tạm bỏ qua mấy cái vụ lãi suất đứng, lãi xuất tăng mà đi một vòng tham quan nhà cửa ở những vùng có người Việt sinh sống, đầu tư để xem giá cửa nhà đất hiện nay ra sao, trong quá khứ đã lên xuống bao nhiêu, và trong tương lai sẽ như thế nào.
Thụy Văn tôi bắt đầu từ Richmond, nơi từng được mệnh danh là Tiểu Sài Gòn bởi vì là nơi những người Việt tị nạn đầu tiên đến định cư, mở tiệm buôn bán và biến con đường Victoria Street trở thành khu ăn uống Việt Nam được người Úc biết tiếng và nói đến nhiều nhất.
Richmond:
Thuở Thụy Văn tôi còn thích ở nhà thuê và nếu có tiền thì mua xế láng, nhậu nhẹt, làm những chuyện thiên hạ coi ruồi bu nhưng mình lại thấy hạnh phúc, một căn nhà hai phòng ngủ ở một nơi được coi là cho người giàu – (Richmond đọc trại từ richman?)– giá chỉ khoảng $25,000. Một căn nhà gỗ double-front ba phòng ngủ vào giữa thập niên 1980 giá cũng khoảng $60,000. Nhưng cái khu Richmond nằm sát nách trung tâm thành phố, cùng một biên giới với East Melbourne, vốn là nơi sinh sống của di dân gốc Hy Lạp, nơi có nhiều hãng xưởng, ngày nay đã được coi là khu up-market dành cho giới trung lưu trở lên, nơi mà những thanh niên có nghề chuyên môn, những cặp vợ chồng trẻ có lợi tức cao tìm đến sinh sống, vì gần phố.
Thụy Văn tôi còn nhớ khoảng đầu thập niên 1990 khi nhà cửa bị mất giá thê thảm do lãi suất quá cao (khoảng 17%), thất nghiệp tràn lan (khoảng 11%), một căn nhà gỗ 3 phòng ngủ (tức là phải double front đấy) giá chỉ còn khoảng $110,000 – $120,000. Thời này nữ hoàng điền kinh Cathy Freeman bắt đầu được biết tiếng nên cô đã từ ở chốn xa xôi nào đó về tậu một căn townhouse ở Richmond và sống chung với anh chàng bồ (nay thì, theo báo chí, người phụ nữ Thổ dân này đã mua nhà và sống tại vùng Kew với lợi tức bạc triệu mỗi năm đến từ quảng cáo). Vì thế mà Thụy văn tôi mới gọi khu Richmond là nơi dân trung lưu, trẻ và không có con cái chọn làm nơi dừng chân buổi ban đầu.
Nhà 3 phòng ngủ ở Sunshine, chủ muốn bán với giá $350,000 (tháng 1/08) |
Thời đó, có rất nhiều người Việt sống ở Richmond, nhưng do thấy giá nhà lên cao hay không thích sống trong “khu ổ chuột” chật chội và nhà cửa cũ mèm nên đã thiên di về những vùng có cây xanh ở miền đông hay đông nam. Lại có người đoán được thời cơ nên không những không bán ra mà còn mua vào những căn nhà lẹp xẹp ở đây để cho thuê hay cho bà con tạm trú. Những ông bà Mít này bây giờ thảy thảy đã trở thành những triệu phú bất động sản rồi. Lý do, như bạn đọc đã thấy trong bảng thống kê đăng trên TVTS số 1050, một căn nhà trung bình ở Richmond bây giờ giá $497,000. Có 3 căn không là triệu phú sao?
Theo tài liệu của viện địa ốc tiểu bang Victoria là REIV đăng trong đặc trang Domain số Mùa Thu 2006 của báo The Age thì giá nhà ở Richmond đã tăng 4% trong một năm qua tính từ tháng 2/2005 đến tháng 1/2006, từ $465,000 lên $483,000.
Xin mở ngoặc ở đây: việc công bố giá địa ốc của viện REIV xảy ra từng tháng, từng quý và mốc thời gian của một năm đôi lúc thay đổi. Nếu bạn so sánh giá nhà Richmond căn cứ trên dữ kiện trong số báo 1050, sẽ thấy giá nhà khác số báo tuần này, vì giá nhà ở Richmond trong số báo trước dựa vào tháng 11/2005 và tháng 3/2006.
Cũng xin dài giòng thêm, trong một vùng, số nhà bán ra càng nhiều thì sự đánh giá càng chính xác hơn. Bởi vậy trong các bảng thống kê người ta còn ghi ra như “số nhà bán ra dưới 30 cái” chẳng hạn. Và khi nói căn nhà trung bình là tính luôn những căn nhà bán bạc triệu và những căn nhà chỉ vài trăm ngàn. Vì thế, chẳng lạ gì nhà trung bình ở Toorak nằm trong khoảng gần $2 triệu một cái bởi vì ở đấy có nhiều nhà vài triệu trở lên trong khi nhà dưới $1 triệu rất hiếm. Ở Richomd cũng có những căn nhà trên $1 triệu nhưng đa số nhà bán ra thường là vài trăm ngàn nên giá nhà trung bình vẫn còn nằm ở mức gần nửa triệu một cái. Trong một năm qua, căn nhà có giá nhất ở Richmond bán lên tới $1.4 triệu.
Chắc bạn cũng muốn biết giá unit ở vùng này? Tin vui là giá unit trung bình đã tăng từ $308,000 (2/2005) lên tới $339,000 (1/2006) tức là tăng lên tới 10.1%, vượt xa giá nhà (house). Trong nửa đầu của thập niên 1990, unit ở Richmond tăng 12.8%. Nữ hoàng cự ly Cathy Freeman mua unit trong nửa đầu thập niên 1990 và sau đó dời về Kew gần cuối nửa thập niên sau, chắc cũng đã kiếm được mớ tiền lời nhờ unit tăng? Người đời nói kẻ giàu cứ giàu thêm là thế.
Vùng đất của dân lao động ngày xưa nay đã trở thành nơi giúp cư dân hái ra tiền. Bạn cứ đi một vòng ở Richmond, như trên đường Elizabeth hay Barker nằm song song với đường Victoria Street mà xem. Những “căn nhà ổ chuột”, bé tí ti đã được người ta mua, giật sập và xây thành 2 căn townhouse hai tầng hay những unit nhỏ xinh xắn và bán ra với giá cũng tới gần nửa triệu: mua một bán ra hai (thấy vậy nhưng không hẳn vậy, nghĩa là không dễ ăn như người ta kể Thụy Văn ghi ra đây đâu nhé).
Nhà cửa ở Richmond trong nửa thập niên đầu 1990 mỗi năm tăng 9.2%, vượt xa lãi suất ngân hàng thời gian đó. Năm qua, với giá nhà tăng lên 4%, một căn nhà cho thuê lợi tức thường từ 3% đến 4% so với vốn, cũng có thể bù dư cho tiền lời ngân hàng, dù ông Thống đốc Macfarlane mới cho tăng lãi suất vào đầu tháng.
Những bạn đầu tư vào địa ốc Richmond cũng nên biết trong năm qua, tỉ lệ nhà đưa ra bán đấu giá (auction) đã được bán (sold) với tỉ lệ 74.5%, là tỉ lệ cao. Nói theo ngôn từ Mít tộc là bán chạy như tôm tươi.
Springvale:
Nếu trí nhớ Thụy Văn tôi còn tốt thì sau Richmond, người Việt tị nạn thuở ban đầu kéo nhau ra sống ở vùng đông nam Melbourne. Lý do dễ hiểu là ở đó có những hostel dành cho di dân như Enterprise (vùng Springvale) và East Bridge (Nunawading/Mitcham?). Nhiều người tị nạn không thiên di tới Richmond bởi vì cảnh đẹp và xanh tươi của vùng đông nam hớp hồn họ khi họ còn sống trong các trung tâm dành cho di dân. Springvale trở thành trung tâm thứ hai của người Việt ở vùng phía đông và đông nam. Và đến nay, người Việt ở Springvale nói riêng và vùng đông nam nói riêng có dân số đứng hàng thứ hai sau Footscray và vùng miền tây Melbourne.
Trong bài viết này, Thụy Văn tôi sẽ chọn thời điểm so sánh nhà cửa là tháng 2/2005 và tháng 1/2006. Và khi nói giá cả năm 2005 và 2006, xin bạn đọc lưu ý là nói về thời gian đó.
Giá nhà ở Sprigvale đã tăng từ $243,000 lên $258,000 trong thời gian từ năm 2005 đến 2006, tức tăng 6.2% trong khi đó giá unit lại giảm từ $235,000 xuống còn $213,000 (-9.4%).
Trong thời gian nửa đầu thập niên 1990, giá nhà mỗi năm tăng trung bình 10% và căn nhà cao nhất tại thủ phủ miền đông của người Việt được bán ra trong năm 2005 là $440,000. Tỉ lệ nhà đấu giá trong năm vừa rồi là 64.3%.
Springvale South: Không hiểu tại sao giá nhà ở vùng phía nam của Springvale như Springvale South lại cao hơn. Có lẽ xa “nơi phồn hoa đô hội” thì cuộc sống “an toàn” khiến thiên hạ thích hơn, làm giá nhà lên cao? Bạn nên hỏi những người hiện đang sống ở khu vực này. Cũng nên biết nhà ở Springvale South trong năm qua đã từ $237,000 lên $299,000 tức tăng đến +26.1%. Căn nhà được bán với giá cao nhất trong năm là $390,000.
Còn unit thì sao? Lạy Chúa tôi, những người có unit tại Springale South phải cám ơn trời đất vì giá unit đã tăng từ $195,000 lên $280,000. Một năm mà tăng 43.6% thì quả rằng người có một hai unit ở đây đang trúng số địa ốc.
Footscray:
Sau Richmond và Springvale, Footscray là địa danh nổi tiếng của người Việt tị nạn đầu thập niên 1980 bởi vì ở đấy có một trung tâm tiếp nhận di dân mới đến: Midway Hostel.
Thụy Văn tôi ngày đó cùng bạn bè vào Midway Hostel để vui chơi văn nghệ, mời đồng hương tham gia các phong trào yểm trợ kháng chiến và thấy rằng có nhiều người thay vì đến “thủ đô tị nạn” Richmond hay xuống Springvale, đã chọn các khu ngoại ô vùng miền tây làm quê hương thứ hai, dù biết rằng đấy là khu vực của giới lao động, đồng khô cỏ cháy (vì không có nhiều cây cối), không khí không tốt (gần các kho chứa hóa chất, nơi trước kia có máy lọc dầu hỏa).
Thời đó nghe ai sống ở Footscray thì người ta có cảm tưởng như rằng họ đã chọn lầm đường hay không có sự chọn lựa nào khác, hoặc những kẻ định cư ở đấy là những kẻ kém “may mắn”.
Một căn nhà “tiêu biểu” ở Kew với 4 phòng ngủ, rao đấu giá từ $2.2 đến $2.8 triệu (tháng 10/07) |
Nhưng chỉ một thời gian ngắn chưa đầy một chục năm sau, Footscray đã trở thành “thủ đô thương mại” của người Việt ở thành phố Melbourne. Nếu nói Cabramatta là thủ phủ của người Việt ở Sydney thì Footscray chính là thủ phủ của người Việt ở Melbourne. Sự phát triển của người Việt ở Footscray nhanh đến độ chóng mặt.
Chiếm hết đường Barkly và Leeds, dân tị nạn làm ăn nên thừa thắng xông lên chiếm các con đường lân cận như Nicholson, Droop v.v… Phải nói rằng không nơi nào ở Melbourne có một khu phố lớn, nhộn nhịp và đi lại tiện lợi như ở Footscray. Khu Cabramatta ở Sydney là một khu vực biệt lập của người Việt nằm, “hẻo lánh” và cách xa trung tâm thành phố Sydney. Trái lại, Footscray nằm sát nách thành phố Melbourne, cách xa khu thương mại CBD chừng vài cây số và là trục lộ giao thông của cả khu miền tây Melbourne.
Người Úc lúc này khi nói đến khu người Việt dù với ý tốt hay ý xấu, đều nhắc nhở ngay tới Footscray. Kể từ đầu thập niên 1990, Footscray được xem là nơi có đông người Việt sinh sống nhất. Và theo “thống kê” miệng của Mít tộc, khu miền tây chiếm khoảng 2/3 trong khoảng 60,000 – 70,000 người Việt hiện đang định cư ở Melbourne.
Từ Richmond đi Springale mất khoảng 26 cây số trong khi qua Footscray, đường chỉ dài khoảng 12 cây. Footscray đã trở thành vùng đất lành đối với người Việt, vì thế mà khoảng 20 năm sau, người Việt đã tây tiến xa hơn, đến Sunshine và rồi St Albans để ngay nay vùng đất xa xôi cách Richmond khoảng 25 cây số như St Albans là nơi không những có nhiều người Việt sinh sống mà phố xá người Việt còn đẹp và sầm uất không thua gì Footscray.
Cuối thập niên 1980, một căn nhà trung bình ở Footcray khoảng năm sáu chục ngàn. Nhiều người cho rằng mua nhà ở Footscray sẽ không có lời vì nhà sẽ không lên giá bằng Richmond. Nhưng nhà đất ở đâu cũng vậy, sẽ vẫn luôn luôn có giá và tăng nhanh hay chậm là tùy mức cầu. Bạn có thể xây thêm lầu nhưng không thể xây thêm đất, không làm cho đất rộng ra được. Đất luôn luôn có giá vì thượng đế chỉ dựng nên chừng ấy đất trong khi lại chúc phúc cho con người sinh sôi nẩy nở như sao trên trời, như các dưới biển…
Nhà ở Footscray trong một năm qua đã từ $300,000 lên $312,000 tức tăng 4%. Trong nửa đầu hập niên 1990, mỗi năm giá nhà tăng khoảng 10.8%. Tỉ lệ nhà đem đấu giá bán được là 65.4%. Căn nhà bán cao nhất Footscray trong năm qua là $725,000. Mấy năm trước đây Thụy Văn tôi trong một bài viết về địa ốc có đưa tin một căn nhà ở Footscray bán trên $1 triệu.
Còn nunit thì sao? Trong một năm qua, unit ở đây đã từ $185,000 xuống còn $178,000 tức mất giá (-) đến 3.8%. Tuy nhiên trong nửa đầu thập niên 1990, cứ mỗi năm unit tại đây tăng 11.1%. Cũng chẳng tệ, phải không bạn?
Footscray West:
Chếch về phía tây một chút, nhà ở Footscray West chỉ tăng từ $302,000 lên $302,500 tức khoảng 0.2% là con số không đáng kể. Nhưng trong nửa đầu thập niên 1990 giá nhà tăng 10.3% mỗi năm. Căn nhà bán đấu giá cao nhất $595,000.
St Albans:
Trong thời gian qua, khi viện địa ốc REIV công bố giá cả địa ốc các vùng, cùng với Melton, St Albans được mô tả là nơi nhà cửa vừa túi tiền nhất. Nói nôm na là nơi giá nhà rẻ nhất. Rẻ nhất lúc này nhưng chục năm sau có thể khác đấy. Thụy Văn tôi nghĩ đã có những người Việt ở trong vùng này nắm được tình hình và đã có thể mua một vài căn cất làm của rồi đấy. Trong khi không thể có bạc triệu để đầu tư ở những vùng như Kew, Hawthorn, Balwyn, Camberwell hay cả nửa triệu đầu tư vào vùng Richmond, Abbottsford, Collingwood hay gần nửa triệu đầu tư ở Footscray, Yarraville thì tại sao lại không thử thời vận ở St Albans, nơi giá nhà còn thuộc hàng top 10 rẻ nhất Melbourne?
Nhà ở đây trong năm qua đãtừ $216,000 lên $219,000 tăng khoảng 1.4%. Tỉ lệ tăng hàng năm trong nửa đầu thập niên 1990 là 11.6%. Tuy nhiên tỉ lệ nhà đưa lên thị trường bán đấu giá được chỉ ở mức 44.7% có nghĩa mức bán ra hơi chậm. Căn nhà giá cao nhất trong vùng này được bán ra ngoái ngoái với giá $375,000. Một căn nhà giá cả như thế chắc hẳn phải là nhà lầu 2 tầng và tương đối mới.
Căn nhà đấu giá ở Toorak cuối năm 2007, không đề giá phỏng chừng, nhưng phải là nhiều triệu |
St Albans East là nơi giá nhà trong năm 2005 trung bình là $240,000 tuy nhiên viện địa ốc REIV không đưa ra các dữ kiện khác liên quan đến vùng này.
Thụy Văn tôi vừa điểm qua “bốn vùng chiến thuật” nơi Việt tộc định cư, làm ăn phát đạt và sắm nhà mua unit lại còn dư trong dư ngoài để đầu tư và hầu như đa số đều đã hưởng lợi nhờ sự bùng nổ địa ốc trong 15 năm qua. Bài viết cũng đã khá dài, Thụy Văn tôi xin rút ngắn lại bằng cách chỉ làm bảng thống kê đơn giản.
Do khuôn khổ nhỏ hẹp của TVTS, Thụy Văn xin bạn đọc theo dõi giá địa ốc ở mỗi vùng bằng hình thức như sau, theo thứ tự từ bên tay trái.
– Giá nhà (tính bằng trăm ngàn) năm 2005, 2006, tỉ lệ tăng giảm trong năm qua, tỉ lệ tăng giảm trong nửa đầu thập niên 1990.
– Giá unit năm 2005, 2006, tỉ lệ tăng giảm trong năm qua, tỉ lệ tăng giảm nửa đầu thập niên 1990.
Nhà/unit, giá năm 2005; 2006 (tăng/giảm) (tăng/giảm trong nửa đầu thập niên 1990)
Giá nhà cao nhất bán ra trong năm.
Abbotsford:
Nhà: $410; $429 (+4%) (+7.7%)
Unit: $400; $403 (+ 0.6%) (+7.3%)
Nhà cao nhất: $751,000
Albert Park:
Nhà: $700; $670 (-4.3%) (+9.2%)
Unit: $563; $458 (-18.7%) (+4.7)
Nhà cao nhất: $4,610,000
Altona:
Nhà: $335; $349 (+4.1%) (+10.9%)
Unit: $300; $272 (-9.2%) (+7.5%)
Nhà cao nhất: $1,800,000
Altona Meadows:
Nhà: $255; $260 (+2%) (+10.2)
Unit: $221; $124 (-3.4%) (+8.1)
Nhà cao nhất: $480,000
Ardeer:
Nhà: $201; $195 (-3%) (+7.6%)
Nhà cao nhất: $410,000
Ascot Vale:
Nhà: $432; $425 (-1.6%) (+7.7%)
Unit: $278; $270 (-2.7%) (+5.9%)
Nhà cao nhất: $1,080,000
Avondale Heights:
Nhà: $317; $315 (-0.5%) (+10.1%)
Unit: $293; $280 (-4.3%) (+11.2%)
Nhà cao nhất: $880,000
Balwyn:
Nhà: $660; $778 (+17.8%) (+11.%1)
Unit: $420; $406 (-3.3%) (+8.5%)
Nhà cao nhất: $2,518,000
Balwyn North:
Nhà: $582; $609 (+4.7%) (+10.5%)
Unit: $440; $513 (+16.5%) (7.3%)
Nhà cao nhất: $1,640,00
Bayswater:
Nhà: $260: $276 (+6%) (+14.5%)
Unit: $199; $250 (+25.6%) (+14.5%)
Nhà cao nhất: $425,000
Blackburn:
Nhà: $$17; $420 (+0.7%) (+11.6%)
Unit: $318; $330 (+3.8%) (+10%)
Nhà cao nhất: $1,450,000
Blackburn North:
Nhà: $362; $357 (-1.3%) (+11.2%)
Unit: $$281; $305 (+8.5%) (+12.1%)
Nhà cao nhất: $606,000
Balckburn South:
Nhà: $380; $395 (+3.9%) (+12.4%)
Unit: $$328; $368 (+12.2%) (+13.5%)
Nhà cao nhất: $675,000
Box Hill:
Nhà: $455; $485 (+6.6%) (+11.2%)
Unit: $$262; $270 (+3.1%) (+11%)
Nhà cao nhất: $1,000,000
Box Hill North:
Nhà: $390; $403 (+3.4%) (+11.7%)
Unit: $285; $346 (+21.4%) (+9.5%)
Nhà cao nhất: $810,000
Box Hill South:
Nhà: $390; $410 (+5.1%) (+10.4%)
Unit: $368; $312 (-15.2%) (+10.1%)
Nhà cao nhất: $772,000
Braybrook:
Nhà: $242; $219 (-9.7%) (+12.5)
Unit: $235; $224 (-4.7%) (+10.3%)
Nhà cao nhất: $425,000
Brighton:
Nhà: $1040; $1100 (+5.8%) (+12%)
Unit: $500; $602 (+20.4%) (+15.6%)
Nhà cao nhất: &,610,000
Brighton East:
Nhà: $657; $724 (+10.2%) (+12.%)
Unit: $525; $503 (-4.3%) (+11.2%)
Nhà cao nhất: $1,700,000
Broadmeadows:
Nhà: $200; $198 (-0.9%) (+13.6%)
Unit: $214; $210 (-1.9%) (không rõ)
Nhà cao nhất: $308,000
Brunswick:
Nhà: $400; $402 (+0.5%) (+9.9%)
Unit: $270; $235 (-13.1%) (+8.6%)
Brunswick East:
Nhà: $$436; $420 (-3.7%) (+9.2%)
Unit: $355; $349 (-1.6%) (+13.6%)
Nhà cao nhất: $835,000
Brunswick West:
Nhà: $$400; $427 (+6.7%) (+9.9%)
Unit: $225; $210 (-6.7%) (+10%)
Nhà cao nhất: $1,250,000
Bulleen:
Nhà: $419; $422 (+0.7%) (+10.2%)
Unit: $328; $350 (+6.5%) (+7.1%)
Nhà cao nhất: $1,065,000
Bundoora:
Nhà: $290; $305 (+5.2%) (+11.2%)
Unit: $234; $246 (+5%) (+9.6%)
Nhà cao nhất: $633,000
Burwood:
Nhà: $410; $448 (+9.1%) (+10.1%)
Unit: $340; $373 (+9.8%) (+11.6%)
Nhà cao nhất: $1,050,000
Burwood East:
Nhà: $352; $360 (+2.4%) (+10.3%)
Unit: $330; $319 (-3.4%) (+11.4%)
Camberwell:
Nhà: $723; $730 (+1%) (+9.6%)
Unit: $368; $350 (-4.9%) (+7.4%)
Nhà cao nhất: $3,075,000
Canterbury:
Nhà: $940; $1003 (+6.6%) (+11%)
Unit: $470; $361 (-23.1%) (+6.5%)
Nhà cao nhất: $4,325,000
Carlton:
Nhà: $472; $535 (+13.5%) (+7.7%)
Unit: $315; $315 (+0%) (+6.4%)
Nhà cao nhất: $2,250,000
Carlton North:
Nhà: $571; $580 (+1.6%) (+8%)
Unit: $285; $330 (+15.8%) (+14.5)
Nhà cao nhất: $2,900,000
Carnegie:
Nhà: $480; $500 (+4.2%) (+9.3%)
Unit: $268; $272 (+1.5%) (+13.4%)
Nhà cao nhất: $907,000
Nhà: $275; $289 (+5.1) (+8.7%)
Nhà cao nhất: $480,000
Caulfield:
Nhà: $690; $660 (-4.3%) (+10.1%)
Unit: $407; $379 (-7%) (+11.7%)
Nhà cao nhất: $2,100,000
Chadstone:
Nhà: $346; $364 (+5.4%) (+10.4%)
Unit: $329; $328 (-0.3%) (+11.6%)
Nhà cao nhất: $691,000
Clayton:
Nhà: $320; $332 (+3.7%) (+12.4%)
Unit: $258; $278 (+7.6) +10.2%)
Nhà cao nhất: $600,000
Clifton Hill:
Nhà: $491; $510 (+3.9) (+9.7%)
Unit: $319; $440 (+38.1%) (+16.5%)
Nhà cao nhất: $1,400,000
Coburg:
Nhà: $350; $363 (+3.7%) (+8.7%)
Unit: $285; $294 (+3.2%) (+13.7%)
Nhà cao nhất: $1,120,000
Collingwood:
Nhà: $412; $384 (-6.8%) (+8.95)
Unit: $395; $346 (-12.4%) (+3.6%)
Nhà cao nhất: $630,000
Coolaroo:
Nhà: $$190; $191 (+0.5%) (+11.3%)
Nhà cao nhất: $318,000
Croydon:
Nhà: $275; $295 (+7.3%) (+12.7)
Unit: $232; $248 (+6.8%) (+11.7%)
Nhà cao nhất: $935,000
Dandenong:
Nhà: $228; $233 (+2.3%) (+12.8%)
Unit: $170; $165 (-3.2%) (+10.9%)
Nhà cao nhất: $500,000
Deer Park:
Nhà: $210; $219 (+4.2%) (+11.1%)
Unit: $189; $213 (+12.9%) (+20.9%)
Nhà cao nhất: $365,000
Docklands (bến tàu cũ):
Unit: $433; $440 (+1.4%) (không có)
Unit cao nhất: $315,000
Doncaster:
Nhà: $435;$441 (+1.4%) (+10.3%)
Unit: $$333; $388 (+16.5%) (+12.8%)
Nhà cao nhất: $925,000
East Melbourne:
Nhà: $$988; $1340 (+35.7%) (+15.9)
Unit: $$350; $398 (+13.6%) (+8.2%)
Nhà cao nhất: $2,250,000
Eltham:
Nhà: $385; $409 (+6.1%) (+9.9%)
Unit: $$293; $316 (+8%) (+11.9%)
Nhà cao nhất: $1,400,000
Elwood:
Nhà $698; $755 (+8.2%) (+10.6)
Unit: $330; $357 (+8.2%) (+9.3%)
Nhà cao nhất: $2,950,000
Endeavour Hills:
Nhà: $245; $255 (+4.1%) (+10.2%)
Unit: $223; $215 (-3.7%) (không có)
Nhà cao nhất: $525,000
Epping:
Nhà: $255; $262 (+2.7%) (+11.4%)
Unit: $235; $245 (+4.3%) (+13%)
Nhà cao nhất: $1,500,000
Essendon:
Nhà: $530; $559 (+.5%) (+10.2%)
Unit: $271; $287 (+6%) (+11.8%)
Nhà cao nhất: $2,200,000
Fitzroy:
Nhà: $505; $500 (-1%) (+(.2%)
Unit: $376; $391 (+3.9%) (+10.3%)
Nhà cao nhất: $1,900,000
Flemington:
Nhà: $381; $393 (+3.2%) (+9%)
Unit: $$181; $206 (+13.9%) (+11.6%)
Nhà cao nhất: $650,00
Frankston:
Nhà: $230; $241 (+4.7%) (+12.5%)
Unit: $$181; $194 (+7.2%) (+17.2%)
Nhà cao nhất: $1,175,000
Glen Iris:
Nhà: $650; $710 (+9.2%) (+11.5%)
Unit: $291; $327 (+12.3%) (+11.5%)
Nhà cao nhất: $3,460,000
Glen Waverley:
Nhà: $414; $435 (+5.2%) (+12.4%)
Unit: $350; $378 (+8%) (+12.5%)
Nhà cao nhất: $1,000,000
Hawthorn:
Nhà: $705; $772 (+9.5%) (+11.6%)
Unit: $296; $308 (+4.1%) (+10.3%)
Nhà cao nhất: $4,000,000
Heidelberg:
Nhà: $401; $450 (+12.3%) (+10.6%)
Unit: $295; $290 (-1.7%) (+10.6%)
Nhà cao nhất: $768,000
Heidelberg West:
Nhà: $245; $252 (+2.7%) (+11.2%)
Nhà cao nhất: $511,000.
Hoppers Crossing:
Nhà: $230; $230 (+0%) (+12.1%)
Unit: $200; $195 (-2.5%) (không có)
Nhà cao nhất: $1,525,000
Ivanhoe:
Nhà: $563; $580 (+3%) (+10.3%)
Unit: $326; $302 (-7.3%) (+7.6%)
Nhà cao nhất: $1,401,000
Ivanhoe East:
Nhà: $717; $759 (+5.9) (+8.3%)
Unit: $331; $281 (-15.1%) (không có)
Nhà cao nhất: $2,450,000
Keilor:
Nhà: $372; $408 (+9.5%) (+9.8%)
Unit: $394; $359 (-8.8%) (không có)
Nhà cao nhất: $1,040,000
Keilor Downs:
Nhà: $273; $65 (-2.8%) (+(8%)
Unit: $215; $239 (+11%) (+11.1%)
Nhà cao nhất : $470,000
Kensington:
Nhà: $386; $423 (+9.5%) (+10.2%)
Unit: $330; $322 (-2.3%) (+10.7%)
Nhà cao nhất: $950,000
Kew:
Nhà: $810; $805 (-0.6%) (+11.2%)
Unit: $342; $367 (+7.3%) (+8.4%)
Nhà cao nhất: $5,500,000
Kew East:
Nhà: $616; $650 (+5.5%) (+11/1%)
Unit: $375; $381 (+1.7%) (+8%)
Nhà cao nhất: $1,300,000
Keysborough:
Nhà $251; $266 (+6%) (+13.5%)
Nhà cao nhất: $570,000
Lalor:
Nhà: $240; $245 (+2%) (+11.3%)
Unit: $224; $233 (+4%) (không có)
Nhà cao nhất: $452,000
Laverton:
Nhà: $191; $188 (-1.7%) (+5.7%)
Nhà cao nhất: $430,000
Maidstone:
Nhà: $288; $296 (+3%) (+11.5%)
Unit: $260; $273 (+4.8%) (+10.6%)
Nhà cao nhất: $500,000
Malvern:
Nhà $780; $884 (+13.3%) ( +15.1%)
Unit: $281; $346 (+23.1%) (+9.4%)
Nhà cao nhất: $4,405,000
Malvern East:
Nhà: $573; $675 (+17.7%) (+11%)
Unit: $350; $363 (+3.6%) (+9.7%)
Nhà cao nhất: $3,300,000
Maribyrnong:
Nhà: $380; $410 (+7.9%) (+7.4%)
Unit: $270; $270 (+0%) (+10%)
Nhà cao nhất: $1,300,000
Melton:
Nhà: $190; $185 (-2.9%) (+10.2%)
Nhà cao nhất $670,000
Mentone:
Nhà: $$441; $465 (+5.4%) (+9.2%)
Unit: $267; $270 (+1.1%) (+10.4%)
Nhà cao nhất: $1,175,000
Middle Park:
Nhà: $810; $850 (+4.9%) (+7.7%)
Unit: $430; $430 (+0%) (+11.5%)
Nhà cao nhất: $2,400,000
Mill Park:
Nhà: $276; $275 (-0.2%) (+8.3%)
Unit: $235; $246 (+4.7%) (không có)
Nhà cao nhất: $588,000
Mitcham:
Nhà: $350; $351 (+0.1%) (+12.2%)
Unit: $286; $310 (+10%) (+12.6%)
Nhà cao nhất: $695,000
Mont Albert:
Nhà: $625; $641 (+2.6%) (+11.5%)
Unit: $315; $385 (+22.2%) (+11.3%)
Nhà cao nhất: $1,547,000
Moonee Ponds:
Nhà: $449; $480 (+7%) (+9.7%)
Unit: $277; $305 (+9.8%) (+8.2%)
Nhà cao nhất: $1,584,000
Moorabbin:
Nhà: $362; $390 (+7.7%) (+8.4%)
Unit: $349; $335 (-4%) (+10.5%)
Nhà cao nhất: $531,000
Nhà: $310; $340 (+9.7%) (+13.6%)
Nhà cao nhất: $478,000
Mt Waverley:
Nhà $410; $430 (+4.9%) (+11.1%)
Unit: $310; $395 (+27.3%) (+11.4%)
Nhà cao nhất: $1,011,000
Mulgrave:
Nhà: $295; $320 (+8.4%) (+11%)
Unit: $244; $282 (+15.5%) (+13.3%)
Nhà cao nhất: $620,000
Narre Warren:
Nhà: $241; $250 (+3.6%) (không có)
Unit: $187; $191 (+2%) (không có)
Nhà cao nhất: $673,000
Noble Park:
Nhà: $239; $236 (-1%) (+13.6%)
Unit: $223; $192 (-13.9%) (+12.3%)
Nhà cao nhất: $468,000
North Melbourne:
Nhà: $450; $459 (+2%) (+6.8%)
Unit: $270; $276 (+2.2%) (+10.2%)
Nhà cao nhất: $1,700,000
Northcote:
Nhà: $432; $460 (+6.5%) (+10.5%)
Unit: $259; $275 (+6.1%) (+13.9%)
Nhà cao nhất: $1,750,000
Nunawading:
Nhà: $332; $340 (+2.4%) (+12.3%)
Unit: $265; $253 (-4.6%) (+9.4%)
Nhà cao nhất: $538,000
Oakleigh:
Nhà: $354; $390 (+10.1%) (+9.3%)
Unit: $270; $274 (+1.4%) (+5.5%)
Nhà cao nhất: $836,000
Parville:
Nhà: $725; $960 (+32.4%) (+13%)
Unit: $280; $310 (+10.7%) (+7.3%)
Nhà cao nhất: $1,840,000
Pascoe Vale:
Nhà: $335; $354 (+5.7%) (+11%)
Unit: $256; $276 (+7.8%) (+8.3%)
Nhà cao nhất: $3,610,000
Patterson Lakes:
Nhà: $410; $435 (+6.1%) (không có)
Unit: $326; $285 (-12.4%) (không có)
Nhà cao nhất: $1,370,000
Port Melbourne:
Nhà: $525; $578 (+10%) (+8.8%)
Unit: $439; $490 (+11.6%) (-2.2%)
Nhà cao nhất: $1,565,000
Prahran:
Nhà: $545; $565 (+3.7%) (+9.5%)
Unit: $$310; $315 (+1.6%) (+6.4%)
Nhà cao nhất: $1,890,000
Preston:
Nhà: $328; $335 (+2.2%) (+11%)
Unit: $244; $268 (+10%) (+9.9%)
Nhà cao nhất: $655,000
Reservoir:
Nhà: $290; $300 (+3.4%) (+11.7%)
Unit: $240; $235 (-2.1%) (+11.5%)
Nhà cao nhất: $700,000
Ringwood:
Nhà: $295; $315 (+6.8%) (+13%)
Unit: $245; $253 (+3.3%) (+13.6%)
Nhà cao nhất: $635,000
Sandringham:
Nhà: $720; $739 (+2.6%) (+8.6%)
Unit: $465; $441 (-5.2%) (+11.9%)
Nhà cao nhất: $2,210,000
South Melbourne:
Nhà: $600; $613 (+2.1%) (+7.5%)
Unit: $$324; $395 (+21.8%) (+5.9%)
Nhà cao nhất: $1,820,000
South Morang:
Nhà: $300; $321 (+7%) (không có)
Unit: $257; $263 (+2.1%) (không có)
Nhà cao nhất: $470,000
South Yarra:
Nhà: $630; $801 (+27.2%) (+10.1%)
Unit: $$325; $345 (+6.3%) (+4.8%)
Nhà cao nhất: $4,060,000
Southbank:
Unit: $315; $345 (+9.5) (-1.9%)
Unit cao nhất: $425,000
St Kilda:
Nhà: $550; $620 (+12.7%) (+9.4%)
Unit: $$280; $310 (+10.7) (+7.9%)
Nhà cao nhất: $3,200,000
St Kilda West:
Nhà: $810; $850 (+4.9%) (+13.2%)
Unit: $$285; $310 (+8.7%) (+6.2%)
Nhà cao nhất: $2,550,000
Sunshine:
Nhà: $240; $240 (+0%) (+11.2%)
Unit: $158; $180 (+13.9%) (+22.7%)
Nhà cao nhất: $340,000
Sunshine North:
Nhà: $248; $240 (-3.2%) (+10.3%)
Unit: $209; $198 (-5.5%) (+10.35)
Nhà cao nhất: $450,000
Sunshine West:
Nhà: $231; $242 (+4.7%) (+14.9%)
Unit: $215; $203 (-5.6%) (không có)
Nhà cao nhất: $440,000
Surrey Hills:
Nhà: $608; $650 (+7%) (+9.9%)
Unit: $360; $388 (+7.6%) (+10.6%)
Nhà cao nhất: $1,476,000
Taylor Lakes:
Nhà: $315; $344 (+9.2%) (+8.3%)
Nhà cao nhất: $1,160,000
Templestowe:
Nhà: $540; $559 (+3.5%) (+9.1%)
Unit: $320; $375 (+17.2%) (14.3%)
Nhà cao nhất: $2,400,000
Templestowe Lower:
Nhà: $407; $440 (+8.2%) (+11.5%)
Unit: $313; $391 (+24.9%) (+13.3%)
Nhà cao nhất: $737,000
Thomastown:
Nhà: $254; $260 (+2.6%) (+12%)
Unit: $191; $220 (+15.2%) (không có)
Nhà cao nhất: $468,000
Thornbury:
Nhà: $396; $410 (+3.5%) (+10.6%)
Unit: $235; $236 (+0.2%) (+12.9%)
Nhà cao nhất: $1,695,000
Toorak:
Nhà: $1703; 1845 (+8.4%) (+14.9%)
Unit: $486; $466 (-4.2%) (+9.2%)
Nhà cao nhất: $8,125,000
Tullamarine:
Nhà: $258; $255 (-1.2%) (+9.4%)
Unit: $213; $217 (+1.9%) (+13.5%)
Nhà cao nhất: 352,000
Vermont:
Nhà: $345; $347 (+0.6%) (+11.9%)
Unit: $266; $310 (+16.5%) (+14.9%)
Nhà cao nhất: $648,000
Wantirna:
Nhà: $313; $320 (+2.2%) (+11%)
Unit: $ $255; $247 (-3.3%) (không có)
Nhà cao nhất: $560,000
Warandyte:
Nhà: $529; $570 (+7.8%) (11%)
Nhà cao nhất: $1,810,000
Werribee:
Nhà: $220; $212 (-3.6%) (+14%)
Unit: $200; $185 (-7.3%) (không có)
Nhà cao nhất: $540,000
West Melbourne:
Nhà: $481; $400 (-16.8%) (+1%)
Unit: $$323; $388 (+20.2%) (+6.2%)
Nhà cao nhất: $825,000
Nhà: $407; $410 (+0.8%) (+6.3%)
Unit: $359; $308 (-14.2%) (không có)
Nhà cao nhất: $1,500,000
Williamstown:
Nhà: $522; $583 (+11.6%) (+9.4%)
Unit: $325; 277 (-14.8) (+9.6%)
Nhà cao nhất: $3,910,000
Yarraville:
Nhà: $354; $370 (+4.6%) (+10%)
Unit: $284; $323 (+13.7%) (+16.8%)
Nhà cao nhất: $2,200,000
Cuối cùng, xin thưa thêm với bạn đọc. Có nhiều ngoại ô như Caulfield ngoài vùng trung tâm, còn có vùng Caulfield East, Caulfield North, Caulfield South và giá cả nhà trung bình cách nhau đôi khi cả vài trăm ngàn như Caulfield North một căn trung bình đến $778,000 trong khi ở Caulfield East chỉ $479,000.
Thụy Văn không đủ sức ghi ra giá cả hàng trăm khu vực trong một bài viết vì sợ đánh máy nhiều sẽ bị tẩu hỏa nhập ma, đánh lộn gây phiền hà bực mình cho bạn đọc. Vả lại, vùng Caulfield chủ yếu có người gốc Do Thái sống. Thụy Văn đã cố gắng ghi ra giá địa ốc các nơi Thụy Văn nghĩ (hay đoán) có nhiều người Việt sinh sống, dù đó là những vùng mới như South Morang… Cũng có những vùng biển gần thành phố như Brighton hay vùng đại triệu phú, phó tỉ phú sống như Toorak, nhưng Thụy Văn vẫn ghi ra để gọi là “thông tin” và biết đâu có bạn đọc sẽ vào đó mua một căn làm hàng xóm với Lindsay Fox…
Trên đây chỉ là giá cả của những ngoại ô thuộc thủ phủ Melbourne. Còn những vùng nằm ở bờ biển xa thành phố thì sao, đắt hay vẫn còn rẻ? Và những vùng nào, ngoại ô nào thì s ắc tộc nào sống tập trung nhiều. Thụy Văn hẹn bạn đọc một dịp khác.