Ở những nước nghèo và độc tài, chỉ cần có quyền là một lúc có thể có được cả ba thứ. Anh có quyền (như tổng bí thư hay thủ tướng, bộ trưởng các nước cộng sản và độc tài) thì tất nhiên anh có hai thứ kia. Ở các nước dân chủ, chưa chắc. Nhưng anh có tiền thì hy vọng có tiếng và có quyền.
Vì thế, ở các nước chậm tiến và độc tài, một người gốc khố rách áo ôm, răng đen mã tấu muốn giàu hay có tiếng thời phải đi làm cách mạng, làm chính trị, nắm quyền, tham nhũng và sau đó trở nên giàu. Trong khi đó, ở các nước tiên tiến và dân chủ, một người giàu có lại sẽ có cơ hội làm chính trị và nắm quyền lực, như Tổng thống Mỹ George W. Bush, Thủ tướng Thái Lan Thaksin, Thủ tướng Ý Berlusconi. Làm chính trị để làm giàu và giàu rồi mới làm chính trị. Loại người sau đỡ tham nhũng hơn, bởi vì họ đã có tiền rồi.
Tuy vậy, trong cuộc sống cũng có những người chỉ thích có quyền mà thôi, hoặc chỉ thích danh hay thuần túy chỉ thích tiền. Ở Úc, báo chí thường nói đến những người giàu và nổi tiếng (rich and famous). Tuy nhiên, khi được hỏi phải chọn giữa giàu và nổi tiếng, nhiều người nói họ thích giàu hơn nổi tiếng, bởi tiếng tăm không trả được những cái bill (hóa đơn đòi tiền) hàng tháng.
Thụy Văn tôi vào đề dông dài để tiếp nối bài viết về những người giàu ở Úc và văn hóa làm giàu trong số báo trước.
Các cụ thường cho rằng “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, tuy nhiên cũng có những người giỏi trong một nghề nào đó màkhông giàu có sung túc, bởi có thể đã không chọn đúng nghề hái ra tiền.
Để bạn đọc TVTS có chút thông tin về lương lậu của các nghề nghiệp của chính bản thân, thân nhân, bạn bè, người hàng xóm hay thiên hạ, Thụy Văn tôi xin ghi ra lương trung bình của 30 nghề nghiệp trong số 340 việc làm/nghề nghiệp mà tác giả Rodney Stinson trình bày trong tập tường trình “What Jobs Pay 2006-07”.
Căn cứ vào các số liệu của Sở Thống Kê Úc, tác giả Stinson cho biết một số nghề nghiệp đã có mức lương trung bình tăng đáng kể trong thời gian 5 năm qua, đứng đầu là những công nhân điều khiển máy móc (plant operators) trong các nhà máy lọc dầu, khí đốt và hóa học. Lương trung bình hàng tuần của họ đã từ $1,135 trong năm 2001 tăng lên $1,974 trong năm 2005, vượt qua lương của nha sĩ, bác sĩ chuyên khoa, luật sư và bác sĩ toàn khoa.
Một tin vui khác cho các nhân viên viên làm việc trong các ngân hàng là lương trung bình hàng tuần của họ cũng đã tăng từ $738 đến $1,043. Các thợ làm đường, lót gạch cũng có lương tăng từ $591 đến $838.
Bên cạnh sự tăng lương, các công nhân trong một số ngành khác sẽ thấy lương bổng của họ bị giảm, như công nhân trong các hãng chế tạo (manufacturing workers) , giảm từ $764 xuống $580; các thợ điều khiển cần trục (crane operators) từ $864 xuống $845.
Nhìn vào thống kê của tập Tường Trình Lương Bổng năm 2006-07, bạn đọc sẽ thấy rằng cái nghề có lương cao nhất là nghề của thợ, như thợ điều khiển máy móc ở các nhà máy lọc dầu hỏa với lương trung bình trên $100,000.
Bạn sẽ thấy lương của các nha sĩ, luật sư, bác sĩ chuyên khoa, bác sĩ toàn khoa thấp hơn. Dĩ nhiên, lương của các bác sĩ và luật sư, các chuyên gia trong tập tường trình này là lương của những người đi làm công cho bệnh viện hay công ty và được trả lương hàng tuần như các công nhân viên khác. Theo tác giả Stinson, lương của các chuyên gia hành nghề tự do (mở phòng mạch, văn phòng riêng) sẽ cao hơn nhiều so với các chuyên gia làm công (salaried employees) khi họ làm chủ công ty, dịch vụ của họ.
Một tin vui khác cho giới thợ thuyền là hiện giờ nước Úc đang thiếu nhân công có tay nghề trầm trọng. Bộ Di trú mỗi năm cho hàng ngàn công nhân có tay nghề (skilled workers) chiếu khán tạm thời vào Úc để làm việc. Trong tài khóa 2005-06 đã có hơn 58,000 thợ có tay nghề và gia đình của họ đã được các chủ nhân xin cho vào Úc làm việc, tăng đến 20% so với năm trước đó. Gần đây bạn đọc đã nghe có những chủ nhân Úc xin cho thợ làm bánh mì từ Việt Nam và thợ hàn xì từ Trung Cộng được đến Úc làm việc bởi công ty không thể tìm được nhân công ngay trong nước?
Có nên khuyến khích bà con, bạn bè học nghề chuyên môn (và học thêm một chút vốn tiếng Anh) để dễ xin qua Úc làm việc hay nộp đơn xin di dân theo diện skilled migrants? Chớ coi thường những nghề bị coi là tầm thường!
Dưới đây là bảng chỉ dẫn. Muốn biết thêm, bạn đọc có thể vào trang mạng
Chuyên viên kế toán: $1,215
Hầu bar rượu: $565
Tài xết xe bus và tram: $819
Đầu bếp chính: $699
Thợ điều khiển máy các nhà máy lọc dầu, khí đốt và hóa học: $1,974
Nhân viên giữ trẻ: $501
Kỹ sư cầu đường: $1,336
Thợ nấu ăn: $450
Thủ quỹ công ty: $1,582
Tài xế giao hàng: $676
Nha sĩ: $1,711
Thợ điện: $970
Thợ làm farm: $585
Thợ nấu ăn fast-food: $483
Giám đốc tài chánh: $1,596
Lính cứu hỏa: $977
Người bán hoa: $517
Tài xế forklift: $741
Thợ làm vườn: $595
Bác sĩ toàn khoa: $1,602
Thợ hớt tóc: $460
Thợ đóng bao bì: $527
Giám đốc lo về nhân viên: $1,393
Phụ bếp: $529
Thợ giặt ủi: $518
Luật sư: $1,689
Thợ làm đồ thép: $996
Kỹ sư hầm mỏ: $1,620
Giáo sĩ: $661
Nông gia nuôi gia súc: $546
Giám đốc văn phòng: $795
Thợ ống nước: $821
Cảnh sát viên: $1,172
Thợ điều khiển máy điện lực: $1,627
Giáo viên tiểu học: $1,062
Thợ nhà in và in màu: $851
Cai tù: $927
Tiếp viên văn phòng: $596
Y tá có bằng: $961
Nhân viên bán hàng: $635
Đại diện bán hàng: $1.014
Giáo viên trung học: $1,149
Thợ may: $469
Quản lý tiệm: $703
Nhân viên xã hội: $1,080
Bác sĩ chuyên khoa: $1,689
Coi kho: $706
Tài xế và phụ tá xe lửa: $1,228
Tài xết xe truck: $908
Bồi bàn: $490