Hình bìa: Thượng tá
Hoàng Hoan mô tả lại thời khắc xảy ra trận đụng độ 14/3/1988 trên tấm bản đồ.
Ảnh: Nguyễn Đông
Cứ mỗi lần tới ngày 14 tháng 3,
một số dân chúng làm lễ tưởng niệm những bộ đội hải quân tử trận trong trận
đánh Trường Sa. Nhà cầm quyền không những tránh né sợ làm mất lòng người “anh
em xã hội chủ nghĩa” phương bắc mà còn cấm cản hay bắt giữ người biểu tình lên
án Trung Quốc chiếm các hòn đảo của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa.
Song song với những cuộc tưởng
niệm của dân chúng ngày hôm qua (14/3), lần này trên báo ở Việt Nam như báo
điện tử VnExpress có vài bài nói về trận chiến cách đây 25 năm. Sau đây là nguyên văn bài
viết của ký giả Nguyễn Đông.
“Sau chiến tranh biên giới năm 1979, khi xuất quân ra
Gạc Ma quân ta đã có đề phòng. Quân chủng Hải quân đã lường đến tình huống có
xung đột vũ trang và quán triệt phải chiến đấu để giữ đảo”, thượng tá
Hoàng Hoan kể lại.
Thượng tá Hoàng Hoan từng giữ chức Phó chỉ huy chính trị
Trung đoàn 83 (Quân chủng Hải quân) giai đoạn 1988 – 1997 và là người trực tiếp
chỉ huy Trung đoàn khi lính Trung Quốc đổ bộ đánh chiếm trái phép đảo Gạc Ma
ngày 14/3/1988 trao đổi với VnExpress.net xung quanh trận đụng độ này.
– Bối cảnh tình hình tại quần đảo Trường Sa như thế nào vào
giai đoạn xảy ra trận đụng độ Gạc Ma năm 1988 thưa ông?
– Năm 1976, Quân chủng Hải quân chỉ đạo chiến sĩ đi kiểm
tra các đảo chìm, cắm mốc chủ quyền. Tháng 10/1987 tình hình trên quần đảo
Trường Sa rất phức tạp, Trung Quốc đơn phương đưa tàu chiến hoạt động ở vùng
biển thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Cuối năm 1987, Bộ Quốc phòng chỉ đạo Bộ Tư lệnh Hải quân
tăng cường khả năng bảo vệ quần đảo Trường Sa, trong đó gồm cả việc củng cố,
xây dựng thêm các hạng mục công trình chiến đấu, sinh hoạt cho bộ đội. Nhiệm vụ
cấp bách nên sau Tết Mậu Thìn, các chiến sĩ vào cảng Cam Ranh (Khánh Hòa) sẵn
sàng nhận nhiệm vụ.
20h ngày 11/3/1988, tàu HQ 604 (Lữ đoàn 125) của thuyền
trưởng Vũ Phi Trừ nhận lệnh xuất phát từ Cam Ranh chở theo 70 bộ đội công binh
của Trung đoàn 83 và 22 bộ đội của Lữ đoàn 146 ra xây dựng cụm đảo Gạc Ma. Khi
bộ đội đang chuyển vật liệu lên đảo thì ba tàu chiến Trung Quốc áp sát, giật
cờ, nã súng xâm chiếm đảo Gạc Ma trái phép. Sau đó, tàu Trung Quốc tiếp tục tấn
công tàu HQ 605 đang bảo vệ và xây dựng đảo Len Đao và tàu HQ 505 canh giữ Cô
Lin.
Trước khi xảy ra xung đột vũ trang tại Gạc Ma, giữa Việt
Nam và Trung Quốc đã có tranh chấp ở đảo Châu Viên (thuộc quần đảo Trường Sa).
Hai tàu của Hải quân Việt Nam chuẩn bị vào đảo thì phía Trung Quốc đã kéo nhiều
tàu đến, buộc quân ta phải rút về Đá Đông.
– Trong tình hình đó Việt Nam đã có những chuẩn bị gì trước
thời điểm Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm đảo Gạc Ma?
– Do có kinh nghiệm từ chiến tranh biên giới năm 1979 nên
khi xuất quân ra Gạc Ma quân ta đã có đề phòng. Quân chủng Hải quân đã lường
đến tình huống có xung đột vũ trang. Lãnh đạo Quân chủng quán triệt nhiệm vụ
với chiến sĩ tham gia nhiệm vụ là nếu có biến cố thì bằng mọi giá phải chiến
đấu để giữ đảo.
Lúc này, lực lượng công binh ra Trường Sa có nhiệm vụ xây
dựng nhà chòi cho bộ đội ở, tạo thành thế trận vững chắc trên biển. Tâm thế của
hải quân Việt Nam lúc đó là làm nhiệm vụ xây dựng trên đảo thuộc chủ quyền của
mình. Tàu HQ 604 và HQ 605 là những tàu vận tải, vũ khí trang bị chỉ có AK và
súng trường. Chủ trương của trung ương khi đó là không để chiến sự xảy ra ở
Trường Sa.
– Khi xảy ra chiến sự ở Gạc Ma, Bộ Quốc phòng và Quân chủng
Hải quân đã có những động thái như thế nào thưa ông?
– Sở chỉ huy Quân chủng lúc đó ở Vùng 4 Hải quân (Cam Ranh,
Khánh Hòa), trực tiếp chỉ huy các lực lượng. Còn Trung đoàn 83 đóng quân cách
Sở chỉ huy gần 1 km. Khoảng 8 – 9h sáng 14/3, đất liền nghe đài phát thanh (lấy
lại tin của Bộ Quốc phòng) thông báo xảy ra chiến sự ở Gạc Ma.
Bộ Quốc phòng chỉ đạo bằng mọi giá phải kiên quyết giữ được
chủ quyền tại 3 cụm đảo này. Thượng tướng Giáp Văn Cương (chỉ huy trực tiếp
Vùng 4 Hải quân và là Đô đốc đầu tiên của Hải quân Việt Nam) điều các tàu đang
làm nhiệm vụ tại Trường Sa có trách nhiệm cấp cứu thương binh đưa về đảo Sinh
Tồn. Ông điện cho Bộ Quốc phòng yêu cầu điều thêm tàu cứu hộ cấp cứu chiến sĩ.
Bộ Ngoại giao Việt Nam đã gửi công hàm tới Bộ Ngoại giao
Trung Quốc phản đối việc nước này xâm phạm chủ quyền ở quần đảo Trường Sa, đặc
biệt là gây xung đột vũ trang tại đảo Gạc Ma.
– Khi đó các lực lượng trên quần đảo Trường Sa đã hiệp đồng
ra sao thưa ông?
– Trận xung đột đã gây cho quân ta thiệt hại rất lớn, hai
tàu chìm, một tàu hư hỏng, 64 chiến sĩ hy sinh, 9 người bị phía Trung Quốc bắt
làm tù binh. Lúc đó, phía ta cũng có nhiều ý kiến khác nhau về quyết định đánh
hay không đánh.
Bản thân chỉ huy trưởng Giáp Văn Cương muốn đánh, nhưng
cuối cùng chúng ta đã quyết định đấu tranh bằng pháp lý để bảo vệ chủ quyền.
– Sau khi Trung Quốc chiếm giữ Gạc Ma, Hải quân đã có
những hành động gì để giữ chủ quyền tại các đảo khác?
– Dù gây tổn thất lớn cho binh đoàn nhưng tình hình lúc này
phải bình tĩnh để xây dựng quyết tâm cho các chiến sĩ. Đêm 16/4/1988, Trung
đoàn công binh 83 lại đưa bộ đội ra xây dựng đảo và riêng năm đó Trung đoàn lập
kỷ lục với 20 khung đi đảo, có chiến sĩ đi đảo tới 5 lần.
Ở hai đảo chìm Cô Lin và Len Đao được xây dựng hai nhà sắt
(sà lan), mỗi nhà 25 tấn thép chuyển vượt gần 500 km từ đất liền ra vô cùng vất
vả và chỉ kịp sơn chống gỉ. Việc xây dựng này theo chỉ đạo của Quân chủng Hải
quân để xem động thái của Trung Quốc. Các lực lượng bảo vệ đảo được tăng cường
giữ chủ quyền.
Chính phủ cũng tổ chức phát động phong trào Hướng về Trường
Sa với khẩu hiệu “Vì Trường Sa thân yêu” về cả tinh thần lẫn vật
chất. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng quyết định giao nhiệm vụ cho 6 tỉnh
Hải Phòng, Quảng Nam – Đà Nẵng, Nghĩa Bình (Bình Định và Quảng Ngãi), Vũng Tàu
– Côn Đảo, TP HCM, Phú Khánh (Khánh Hòa và Phú Yên), mỗi địa phương phải có
trách nhiệm làm một nhà cấp một lâu bền cho một đảo bằng kinh phí và cả lực
lượng tàu vận tải. Tỉnh Nghĩa Bình huy động đến 5 tàu chở vật liệu và 100 công
nhân ra đảo Đá Lớn.
Năm 1988, Trung Quốc đưa quân ra chiếm đóng bãi đá Cô
|
Nguyễn Đông thực hiện