Hỏi và giải đáp 66: Tiếng chuông cảnh tỉnh

04 Tháng 12, 2008 | Uncategorized

Với tựa đề có vẻ là tên của một vở tuổng Cải Lương, tiết mục Tâm Tình Bạn Đọc kỳ này đến với các bạn bằng lá thư của ông TTD. Tại sao ông D lại gọi là thư của mình là một “tiếng chuông cảnh tỉnh”, xin các bạn đọc nguyên văn lá thư để rồi tìm ra câu trả lời.

 

Cô Thanh Lan thân mến,

 

Trước hết tôi xin cầu chúc cô và toàn thể anh chị em trong ban biên tập của quý báo được mọi sự như ý.

 

Tôi vốn ít khi đọc mục Tâm Tình Bạn Đọc của cô, vì ở vào cái tuổi nửa đời người như tôi, mấy ai còn để ý tìm hiểu đến chuyện ái tình của đám trẻ nữa. Chính vì thế tôi rất ngại ngùng khi viết lá thư này, vì sợ tốn thì giờ của cô, vì sợ đi ra ngoài khuôn khổ của mục Tân Tình Bạn Đọc…

 

Nhưng cái tâm sự này tôi đã ấp ủ từ lâu, chỉ mong có ngày được dãi bày! Rất mong cô thông cảm dành cho một kỳ báo để đăng tải, tôi xin rằng tâm sự của tôi cũng là của nhiều người đàn ông Việt Nam khác ở xứ Úc Đại Lợi này.

 

Đề tài của tôi là một câu hỏi: “vị trí gia trưởng của người đàn ông còn hay mất?”. Tôi cũng xin đính chính là tôi không hề bị ảnh hưởng bởi các thiên phóng sự về hội nể vợ của ông TN, mà những gì tôi viết ra đây có thể khách quan, có thể chủ quan, nhưng chắn chắn là tự đáy lòng của một người gia trưởng mất ngôi. Phần cô, tôi cũng hy vọng cô sẽ khách quan để đóng góp ý kiến chứ đừng đứng về phe đàn bà một cách quá cực đoan, mong cô không làm tôi thất vọng!

 

Cô Thanh Lan thân mến,

 

Chắc cô cũng đồng ý với tôi là ở Việt Nam trước năm 1975 thì người chồng là rường cột của gia đình, đó là nói về phương diện kế; còn nói về tôn tri trật tự trong gia đình thì người chồng là gia trưởng.

 

Hồi đó tôi làm ở Phân Chi Khu (tức là cấp xã) đã đi kiểm soát hàng ngàn sổ gia đình mà chưa hề thấy một gia đình nào để cho vợ đứng tên gia trưởng cả, thì như thế có thấy ý kiến của tôi không phải là vô lý!

 

Nay quá đến xứ Úc này, một xứ theo nền văn minh vật chất của Tây Phương, thì một mình người chồng làm không đủ để nuôi cả gia đình, người vợ cũng phải đi làm thì tài chánh của gia đình mới thoải mái. Như vậy ít ra là về mặt kiếm cơm kiếm áo, người chồng có thể không còn là “rường cột” của gia đình nữa.

 

Nhưng bên cạnh đó, phải đau lòng mà nói rằng: trong một số gia đình, trong đó có gia đình tôi, người chồng cũng mất luôn cái chức “gia trưởng”. Có điều là có người vô tình không để ý đến việc mình bị mất chức, có người biết nhưng lại… ngậm đắng nuốt cay!

 

Đem đêm nằm vắt tay lên trán, tôi băn khoăn tự hỏi: có phải cái xã hội Tây Phương này đã làm cho người đàn bà thay đổi quan niệm đạo đức cố hữu hay là chính người đàn bà đã cố tình “bắt chước” xã hội Tây Phương để tự thay đổi tôn tri trật tự cũ? Câu trả lời của tôi là: cả hai, nhưng đa số là thuộc trường hợp thứ hai, tức là “cố tình thay đổi”.

 

Trước khi kể ra những thay đổi trong gia đình của mình, tôi xin đính chính rằng tôi vẫn thương yêu vợ tôi như ngày nào nên không có cái việc “nói xấu” ở đây! Vậy vợ tôi đã thay đổi như thế nào?

 

Trước hết về mặt không phục tùng chồng, vợ tôi đã tiển một bước khá dài.

 

Ngày xưa vợ tôi không bao giờ dám tỏ ra bất đồng ý kiến với chồng trước mặt bạn bè, nhưng nay thì khỏi nói, vợ tôi cự nự tôi trước mặt bạn bè là chuyện rất thường, đôi khi còn đem cả những khuyết điểm của tôi ra để mà bêu xấu nữa!

 

Thứ hai là vợ tôi, sau khi ra đời để kiếm đồng tiền, đã mất đi những cái dịu dàng, thùy mị của mình; vợ tôi thường gắt gỏng với con cái bằng một giọng điệu tàn nhẫn; đối với chồng, mỗi khi có chuyện xích mích, vợ tôi thường xử dụng những ngôn ngữ rất “bình dân”.

 

Thường thường thì tôi cắn răng nhịn nhục, bởi vì tôi không muốn to tiếng trước mặt con cái, sợ gây những ấn tượng xấu trong đầu óc chúng, đồng thời tôi cũng cố tự trấn an rằng: chỉ vì phải lo kiếm tiền mà vợ tôi “tạm thời” thay đổi tính tình, sau này khi đã đầy đủ thoải mái rồi, vợ tôi sẽ trở lại với cái dịu dàng của mình!

 

Chính vì thế mà vợ tôi “được bằng chân, lân đàng đầu”, đến nay thì quả là hết thuốc chữa. Cái khổ tâm cho tôi là vợ chồng vẫn còn thương yêu nhau đậm đà, dù có xảy ra “đại chiến” thì sau đó cũng lại làm hòa với nhau.

 

Nhưng hơn ai hết, tôi thấy cái tình vợ chồng đã kém đi thú vị, cuộc sống giữa vợ chồng, con cái trong gia đình đã bớt đi ý nghĩa! Trong đầu  óc tôi, đôi khi tôi băn khoăn tự hỏi rằng: có thực là cái việc phải cực khổ để làm ra tiền đã là động lực thúc đẩy vợ tôi đòi hỏi “quyền bình đẳng” không?

 

Nếu nói là phải thì tôi thấy cũng không được chí lý cho lắm, vì nếu ta so sánh một cách chi tiết thì ngày xưa, lúc còn là một bà nội trợ, vợ tôi có lẽ cực khổ hơn bây giờ nhiều: nào là mang nặng đẻ đau, nuôi nấng chăm sóc con cái, giặt giũ, nấu nướng, quét dọn… lo cho con từng cái tã, lo cho chồng từng đôi vớ v.v… Bây giờ, ngoài 8, 9 tiếng ở sở ra, vợ tôi đâu có phải đụng đến một việc gì, vì các con đã đảm trách hết cả rồi!…

 

Như thế tôi có thể kết luận – theo ý của tôi rằng: không phải vì cực Khổ Hơn Xưa mà vợ tôi thay đổi, mà chính vì vợ tôi Làm Ra Tiền, không còn phải để chồng nuôi nữa, mà đã không ăn bám thì việc gì mà phải phục tùng!

 

Tôi không dám vơ đũa cả nắm, nhưng tôi biết chắc không phải chỉ có một mình tôi lâm vào tình trạng bế tắc này mà còn nhiều ông chồng đau khổ khác nữa! Chúng tôi không đau khổ vì mất “quyền gia trưởng”, mà đau khổ vì “sự thay đổi của vợ đã làm giảm hạnh phúc gia đình!”

 

Có lẽ tới đây một số bà sẽ đặt câu hỏi: nam nữ bình đẳng là một việc tốt đẹp, cớ sao các ông lại không chịu chấp nhận?

 

Tôi xin trả lời như sau: cái sự bình đẳng nó là một sự hỗ tương, và hình thức bình đẳng nó tùy thuộc vào phong tục tập quán của từng dân tộc. Ngày xưa, các bà phải phục tùng thật đấy, nhưng lúc đó chúng tôi lại dành cho các bà nhiều thương yêu hơn; khi làm một việc gì sai trái, nhớ đến vợ con chúng tôi cảm thấy ân hận, áy náy… đó chẳng phải là một hình thức “nể, sợ” vợ một cách âm thầm hay sao?

 

Cái quan trọng là các bà có chiếm được lòng yêu thương của chồng hay không? Nếu được thì không những chỉ bình đẳng mà muốn “nắm đầu” chồng cũng không phải là chuyện khó. Đó chí là cái “bình đảng trong thương yêu!”

 

Nếu qua đến Úc Đại Lợi này các bà vẫn giữ được cái “tam tòng”, cái “tứ đức” mà lại làm ra tiền nữa thì chúng tôi làm sao m à chê trách được người vợ “hiền thục, nết na có đôi bàn tay Vàng” của mình!

 

Nhưng hỡi ơi, các bà đã lầm to khi cho rằng: phải sống như phụ nữ Tây Phương mới gọi là bình đẳng được, còn ngày xưa chỉ làm “tôi mọi” cho chồng, cho con!…

 

Tôi dám quả quyết một điều rằng, ở cái nước Úc văn minh này, người phụ nữ không được “tôn trọng” bằng người phụ nữ ở Việt Nam trước năm 1975.

 

Cái câu “Lady first” không thôi, cái quyền được làm thủ tướng, làm thị trưởng không thôi thì không có nghĩa là “được tôn trọng”… Vậy người phụ nữ Việt Nam ở Úc phải lựa chọn hoặc là “quyền bình đẳng” theo hình thức Tây phương hoặc là “sự yêu thương” từ trong đáy lòng của chồng!

 

Đến đây chắc một vài vị trong các hội bảo vệ phụ nữ sẽ lên ánh “cái thằng tôi” là bảo thủ, là cực đoan, nhưng tôi đã thưa từ trên, là đây chỉ là tâm sự của một người chồng đau khổ, còn nếu phu quân của quý vị không bị đau khổ thì thôi.

 

Tôi chỉ muốn gióng một “tiếng chuông cảnh tỉnh” đến những người vợ còn đang mang một đầu óc Việt Nam, còn đang mong muốn một hạnh phúc gia đình đậm đà nết dân tộc.

 

Đừng bao giờ đòi hỏi thỏa mãn cái tự ái nhỏ nhen, chồng không phục đã đành mà tình yêu thương cũng sẽ giảm đi. Người ngoài nhìn vào lại cười chê… xin quí bà nhớ cho rằng: chiếm được trái tim của chồng quan trọng hơn là giữ được tất cả các cuốn sổ băng!

 

Hy vọng rằng những lời lẽ tuy một mạc nhưng thống thiết của tôi, nếu không đáng gọi là “tiếng chuông cảnh tỉnh” thì cũng không đến nỗi trở thành một “tiếng kêu trong sa mạc”.

 

Cuối cùng tôi xin cô Thanh Lan cùng quí vị độc giả nam, nữ đóng góp ý kiến để nếu tôi có phần đúng thì bổ túc thêm, hoặc nếu tôi có phần sai, thì xin phê bình trong tinh thần xây dựng.

 

Xin thành thật cám ơn cô Thanh Lan. Chúc cô trẻ, đẹp và mãi mãi là một người đàn bà Việt Nam.

 

TTD

 

Trả lời của Thanh Lan:

 

Trước hết, Thanh Lan không hoàn toàn đồng ý với ông D. về cái nhận xét: vì đi làm ra tiền, không sống nhờ vào đồng lương của chồng, mà các bà vợ lấn lướt hoặc coi thường chồng mình.

 

Khi một người đàn bà đã không biết nể phục chồng thì dù có đi làm ra tiền hay là ở nhà lo công việc nội trợ, họ cũng đối xử với chồng như thế. Có điều ngày xưa khi còn ở Việt Nam, còn sống nhờ vào đồng lương của chồng thì họ không có được cái “thế” để bộc lộ sự coi thường đó; qua đây vừa làm ra tiền, vừa được xã hội “giải phóng” họ không cần giữ gìn nữa!

 

 

Như thế trong trường hợp này, cái sự không nể phục chồng đã có từ trước và là yếu tố căn bản, còn cái sự đi làm ra tiền chỉ là phụ thuộc thêm vào mà thôi. Vậy thì cái nhận xét của ông D. không đúng trong trường hợp này. Ta xét đến những người vợ xưa nay vẫn nể phục chồng mà bây giờ lại thay đổi.

 

Theo ông D. thì họ cố tình thay đổi, nhưng theo ý Thanh Lan, đó chỉ là một số rất nhỏ, còn đại đa số thì thay đổi một cách “tự nhiên”.

 

Những người cố tình thay đổi là những người có một bản tính hời hợt, nông cạn và thường nhìn sự việc qua giá trị vật chất. Khi còn sống nhờ vào chồng, họ coi chồng là tất cả, là rường cột gia đình, là vị tư lệnh tối cao…

 

Bây giờ đi làm ra tiền, họ tự thấy họ không thua gì chồng, có khi thấy mình còn hơn cả chồng, vì làm ra tiền nhiều hơn. Trường hợp này là nguy hiểm nhất, bởi vì sự thay đổi của người đàn bà rất rõ rệt, nếu người chồng không đủ bản lãnh đôi khi đi đến chỗ đổ vỡ…

 

Nhưng như Thanh Lan đã nói ở trên, đại đa số là những người thay đổi một cách tự nhiên. Mà đã gọi là một cách tự nhiên (naturally) thì ta không thể trách cứ họ được.

 

Các ông chồng đã từng lăn lộn để kiếm sống chắc hẳn phải đồng ý một điều là: công việc và môi trường làm việc ảnh hưởng rất nhiều đến tính tình và tình cảm của con người.

 

Một người kiếm được một công việc vừa ý, lại lãnh lương cao chắc chắn sẽ cảm thấy vui vẻ, thoải mái, yêu đời hơn là một người phải bắt buộc chấp nhận một công việc, đã không vừa ý mà lương lại thấp. Rồi từ cái thoải mái, yêu đời đó tình cảm đối với mọi người sẽ trở nên tốt đẹp hơn…

 

Vậy khi một người vợ phải cùng với chồng ra đời để cùng nhau lo cho gia đình, thì chắc chắn một điều là người vợ đó không còn đủ thì giờ và tâm trí để lo cho chồng con như những người vợ ở nhà.

 

Rồi người chồng cảm thấy thiếu thốn những sự chăm lo, âu yếm ngày xưa, tình nghĩa dù có đậm đà cũng không có nhiều thì giờ, cơ hội để bày tỏ cùng nhau… Cũng có khi sự mệt mỏi về thể xác, sự căng thẳng về tinh thần làm cho người vợ mất đi cái dịu dàng thuở trước, hay gắt gỏng cau có với chồng con…

 

Ông D. thân mến.

 

Đến đây có lẽ ông cho rằng Thanh Lan hơi lạc đề, vì lá thư của ông nhấn mạnh đến việc vợ ông lấn lướt chồng, muốn được tự do như người phụ nữ Tây phương, mà Thanh Lan lại đi phân tích về những trường hợp chung chung.

 

Sở dĩ Thanh lan phải đi từ cái chung chung đó để cho ông thấy rằng; trong một xã hội như nước Úc hiện nay, ông không thể nào đòi hỏi người vợ phải chu toàn mọi bổn phận trong gia đình như ở Việt Nam trước năm 75, trừ phi ông có lợi tức 1000 đô la mỗi tuần, tức là đủ để nuôi vợ, con, đủ để cho các con ăn học nên người, đủ để mua một căn nhà trả góp, đủ để lâu lâu gửi chút ít quà về cho gia đình ở Việt Nam, hay nói một cách khác, khi người vợ phải thay đổi nếp sống cũ vì hoàn cảnh xã hội, thì người chồng cũng phải thay đổi theo để “thích ứng với sự thay đổi của vợ mình”.

 

Thanh Lan không cực đoan để bênh vực chị em bạn gái của mình, mà đó là một sự công bằng tối thiểu. Làm thân phận đàn bà con gái Á Đông, Chẳng có ai là muốn bỏ gia đình để ra bon chen với đời, mà chẳng qua chỉ vì sinh kế mà thôi. Vậy nếu không biết thông cảm với những nỗi khổ tâm đó, mà chỉ biết trách cứ có phải là bất công hay không?…

 

Dĩ nhiên là cũng có một số đàn bà quá đặt nặng cái vật chất, cho rằng đi làm đem tiền về là xong bổn phận (mà Thanh Lan đã đề cập đến ở đoạn trước), đối với những người đó, thì lá thư của ông D. đúng là một “Tiếng chuông Cảnh Tỉnh”.

 

Các chị đó cần phải nhận thức rằng từ Đông qua Tây, từ Cổ Chí Kim, qua thiên chức làm vợ, làm mẹ, người đàn bà đã đóng một vai trò quan trọng nhất trong việc tao dựng và duy trì hạnh phúc gia đình.

 

Đồng tiền nó có giá trị thật đấy, nhưng không phải lúc nào nó cũng đem lại yên vui, ấm cúng cho chồng con, vì người đàn ông bao giờ cũng cần sự âu yếm, dịu dàng; lũ trẻ con lúc nào cũng thèm muốn những sự vuốt ve, trìu mến và những cái đó chỉ có người đàn bà với một trái tim mới có thể đem lại được mà thôi…

 

Đối với những người vợ, người mẹ, đã phần nào quên đi cái thiên chức cao cả của mình, Thanh Lan thiết nghĩ lá thư của ông D. cũng có phần hữu lý. Tuy nhiên còn nhiều điểm trong lá thư hơi có vẻ “gắt gao” và chắc chắn không được chị em phụ nữ hoan hỉ đón nhận. Thanh Lan hy vọng sẽ nhận được nhiều ý kiến xây dựng từ phía bạn đọc, nam cũng như nữ, để chúng ta cùng đi đến một kết luận chung.

 

Và trong khi chờ đợi cái “hòa ước” đó, có lẽ quí vị làm chồng đang “lấy lại phong độ” sau khi lá thư của ông D. được đăng tải  trong số đó có cả ông xã của Thanh Lan.

 

Nhưng Thanh Lan đã tự nhủ: cứ để cho ông ấy lên mặt, còn mình cố mà giữ lấy cái Tam Tòng, Tứ Đức. Không phải Thanh thua chồng, sợ chồng, nhưng đó là một phương cách êm thắm nhất để duy trì hạnh phúc trong gia đình và bảo vệ cái chức “nội tướng” của mình.

 

Bởi vì khi chồng không thể trách mình được điều gì thì lúc đó là lúc chồng phải ngã vào đôi tay của mình, đôi tay đó có phải là bằng “sắt bọc nhung” hay là tùy bản lãnh của các bà vợ.

 

Thanh Lan.

 

Trả lời vắn tắt:

 

Em H. Vu

Cái danh từ Dại Gái, mà các bạn đã gán cho em, không được chính xác cho lắm. Trong việc giao thiệp giữa nam và nữ, có người tính toán cẩn thận, như khi đi mua bán vậy, lại cũng có những người chẳng để ý gì đến lời lỗ, miễn sao được vui là đủ.

 

Vậy em cứ việc giữ cái lối giao thiệp thoải mái của mình, chẳng có gì lá thiệt thòi đâu. Hơn nữa nếu suốt cuộc đời em lúc nào cũng phải “thủ thế” thì làm sao có ngày tìm được một tình yêu…

 

Thân mến.

 

Em VTTN

Có rất nhiều tài liệu nói về bệnh AIDS. Em có thể tìm tài liệu hướng dẫn miễn phí của bộ Y Tế tại các bệnh viện. Trong mối quan hệ sinh lý, một sự hiểu biết đến nơi đến chốn sẽ làm cho cả hai yên tâm hơn, và từ đó, sẽ tìm được một hạnh phúc lứa đôi trọn vẹn hơn.

 

Cho tới giờ này thì cái câu “phòng bệnh hơn chữa bệnh” vẫn đúng, nhất là đối với căn bệnh AIDS ghê gớm bất trị kia.

 

Thanh Lan