Chuyện dài “Đền Thờ Quốc Tổ” ở Sunshine (Kỳ 7)

09 Tháng Tư, 2008 | Người Việt đó đây

 

* * *

 

Sau khi tham khảo ý kiến của một số đồng bào đã đóng góp tiền bạc trong việc gây quỹ xây dựng Đền Thờ Quốc Tổ, một số thành viên của Hội Cộng Đồng (Vietnamese Community in Australia – Victoria Chapter Inc., Reg. No. A0012976M), một số thiện nguyện viên đã đóng góp công sức cho việc xây dựng Đền Thờ Quốc Tổ; và căn cứ trên những tài liệu mà tôi tìm thấy từ Ủy Hội Chứng Khoán và Đầu Tư Úc Châu (Australian Securities and Investments Commission) (“ASIC”), từ Cơ Quan Bảo Vệ Người Tiêu Thụ (Consumer Affairs Victoria) (“CAV”), các thông báo của Hội Cộng Đồng, cũng như tin tức phổ biến trên các phương tiện truyền thông cộng đồng trong nhiều tháng qua, bao gồm thông báo tuần qua đăng trên các phương tiện truyền thông cộng đồng của ông Nguyễn Thế Phong (Phong Thaddeus Nguyen) – Chủ Tịch Hội Cộng Đồng, Giám Đốc Sáng Lập Duy Nhất (Founding Member Director) của (Công Ty) Trung Tâm Bảo Tồn Di Sản Văn Hoá Người Việt (Úc Châu) (Vietnamese Cultural Heritage Centre (Australia) (Limited) ACN. 105 494 693) có trụ sở đăng ký tại: 9 Hillcrest Grove, Springvale, VIC. 3171 (“Công ty VCHC”).

 

Quan điểm của tôi về việc cộng đồng người Việt Victoria xây dựng Đền Thờ Quốc Tổ như sau:

 

MUA ĐẤT

 

1.  Vào đầu năm 2002, sau khi tổ chức gây quỹ trong cộng đồng người Việt Victoria, theo tài liệu ở Sở Địa Chính Victoria (Land Registry Victoria), Hội Cộng Đồng đã mua 4 lô đất ở khu vực 86-92 Knight Avenue, North Sunshine. Hai lô ở trong góc được mua với giá là A$100,000 là của ông bà Nguyễn Văn Hùng và Nguyễn Thị Đức Hạnh, cha và mẹ của cô Nguyễn Ánh Kim. Trong thời gian việc mua bán tiến hành, cô Kim là Phó Chủ Tịch Hội Cộng Đồng.  Hai lô ở phía ngoài của một chủ đất khác được mua với giá là là A$89,000.

Trong thông báo mới đây, ông Phong viết rằng “theo các chuyên viên địa ốc trong vùng, vào thời điểm đó giá một lô đất là… bây giờ giá một lô đất là…”  Tuy nhiên, ông Phong không trưng ra được bằng chứng là có sự định giá độc lập (không có chi tiết về tên chuyên viên, địa chỉ văn phòng, văn bản định giá được viết vào thời gian nào, mới đây hay trước khi mua đất). Vì vậy, tôi cho rằng ông Phong không có báo cáo định giá độc lập trước khi mua đất.

Hội Cộng Đồng không được thành lập với mục đích mua bán nhà đất. Quy định pháp luật không cho phép Hội có hoạt động thương mại. Ông Phong và bà Bé Hà không có bằng cấp chuyên môn về đầu tư địa ốc. Ông Phong không có hợp đồng với Hội Cộng Đồng để kinh doanh bất động sản trong vai trò Chủ Tịch Hội Cộng Đồng. Vì vậy, tôi không xét đến thông tin về giá cả của các lô đất thay đổi theo thị trường trong sáu (6) năm qua ở Melbourne. Tôi tin rằng, trong sáu (6) năm vừa qua, bất cứ lô đất nào ở Melbourne cũng đều lên giá, nhưng đó không phải là việc mà tôi muốn trao đổi cùng quý vị trong bài viết này, vì tôi không có bằng cấp chuyên môn về đầu tư địa ốc.

Tôi cũng ghi nhận là ông Phong đã không tiến hành các thủ tục luật định: phải trưng cầu ý kiến của toàn thể hội viên Hội Cộng Đồng trong việc mua bán có liên quan đến Phó Chủ Tịch Hội Cộng Đồng.

Vì không có sự định giá độc lập và không có sự trưng cầu ý kiến hội viên, việc mua bán đất nói trên là không minh bạch và vi phạm luật pháp.

2. Vào năm 2002, cô Kim Su-Nhi là Thủ Quỹ của Hội Cộng Đồng. Tuy nhiên, căn cứ tài liệu của Sở Địa Chính Victoria, bà Bé Hà đã ký trong các văn kiện mua đất của Hội Cộng Đồng với chức danh Thủ Quỹ, cùng với ông Phong trong chức danh Chủ Tịch Hội Cộng Đồng. Ông Phong và bà Bé Hà đã vi phạm luật pháp, và có dụng ý không rõ ràng đối với tài sản cộng đồng.

3. Ông Phong đã quyết định chọn các lô đất ở số 86-92 Knight Avenue, Sunshine để tiến hành việc xây dựng Đền Thờ Quốc Tổ. Trước khi mua đất, ông Phong đã không tìm hiểu về điều kiện các lô đất này: có thể xây dựng được hay không và khi nào.  Tôi ghi nhận rằng các khu đất đã mua không có đường sá đúng quy cách, không có hơi đốt, không có cống rảnh, không có nước, và hệ thống điện chưa được nâng cấp. Cho đến thời điểm hiện nay, sáu (6) năm đã trôi qua, vì điều kiện của các lô đất này, giấy phép xây dựng đã không được cấp. Ông Phong cũng không đưa ra được những văn bản cho biết chính xác khi nào có giấy phép để tiến hành công việc xây dựng Đền Thờ Quốc Tổ một cách hợp pháp.

Sự cố ý, cẩu thả, hay bất cẩn của ông Phong trong việc mua đất đã gây ngưng trệ cho công việc xây dựng Đền Thờ Quốc Tổ của cộng đồng người Việt Victoria.

XÂY DỰNG

 

4.  Bất chấp việc không xin được giấy phép và thiếu thốn các điều kiện sinh hoạt cơ bản, ông Phong vẫn cho tiến hành xây dựng một cơ sở tạm trên các lô đất đã mua, và tổ chức các sinh hoạt cộng đồng. Ngày 11/9/07,  Hội Đồng Thành Phố Địa Phương Brimbank (“Council”) đã gởi một “Building Notice” đến Hội Cộng Đồng. Cơ sở tạm này sau đó bị cấm hoạt động vô thời hạn.

5. Tôi không đồng ý với biện minh của ông Phong trong việc ông cho tiến hành xây dựng cơ sở tạm, để có thể xin được giấy phép sau này, theo quy chế “cơ sở đã có sẵn”.  Ông Phong đã được Council cho biết là ông phải chấp nhận rủi ro khi xây cơ sở tạm. Những rủi ro này bao gồm: 1) Việc có cơ sở tạm không nhất thiết bảo đảm là giấy phép sẽ được cấp. Trong trường hợp giấy phép không được cấp, cơ sở tạm phải bị tháo dỡ đi. 2) Nếu nhu cầu tháo bỏ các cơ sở tạm là  khẩn cấp và cần thiết, để việc xây dựng các công trình công cộng (nước, hơi đốt, điện, cống rảnh) có thể tiến hành, các cơ sở tạm không có giấy phép sẽ bị tháo bỏ ngay lập tức.

6. Tôi lưu ý đến lập luận của ông Phong rằng: “thật ra còn một lý do khác quan trọng hơn khiến chúng tôi phải xây Đền Thờ Quốc Tổ ngay” vì cố Gs. Lương Minh Đáng, người đã đóng góp rất nhiều cho việc xây dựng Đền Thờ Quốc Tổ, hỏi “chừng nào mới xây”, nếu không đủ tiền sẽ cho thêm. Tôi tin rằng ông Phong đã không nói rõ sự thật cho cố Gs. Lương Minh Đáng biết về tình trạng không có giấy phép xây dựng. Ngược lại, ông Phong cho tiến hành xây dựng cơ sở tạm, để nhận thêm tiền của cố Gs. Lương Minh Đáng.

Không nói rõ sự thật, xây dựng cơ sở tạm một cách bất hợp pháp, không đúng quy cách, không an toàn, ông Phong và bà Bé Hà đã coi thường sinh mạng, sức khoẻ, và tài sản của đồng bào, và làm mất đi uy tín và danh dự của cộng đồng người Việt ở Victoria.

7. Ông Phong và bà Bé Hà đã phí phạm nghiêm trọng tài sản của Hội Cộng Đồng. Tôi lưu ý đến việc ông Phong và bà Bé Hà đã tự quyết định xây dựng khu vực bếp của đền thờ tạm với tổn phí là A$25,000. Vì lý do khu vực bếp đã xây quá gần với chuồng đang nuôi ngựa của một chủ đất khác, nên Council đã yêu cầu tháo bỏ khu vực bếp. Tôi đã được xem văn thư của Council ngày 28/12/07 về việc này.

8. Tôi lưu ý đến sự việc ông Phong và bà Bé Hà đã tự ý quyết định gắn plaster vào cơ sở tạm với phí tổn A$60,000. Việc làm này trái với các quy định pháp luật về xây dựng, dẫn đến việc Council đóng cửa, cấm sử dụng cơ sở tạm này vô thời hạn. Tôi đã được xem văn thư “Building Notice” của Council ghi rằng cơ sở đã xây dựng không có giấy phép, xây dựng sai quy cách, không an toàn và nguy hiểm đến sức khoẻ của người sử dụng.

9. Tôi bác bỏ lập luận của ông Phong cho rằng, Council đóng cửa cơ sở tạm vì có người tố cáo. Council đóng cửa cơ sở tạm vì xây dựng không có giấy phép, vi phạm các nguyên tắc xây dựng, không an toàn, và ảnh hưởng sức khoẻ người sử dụng. Không có bằng chứng nào cho thấy Council dùng những lời cáo buộc của bất kỳ cá nhân nào để làm cơ sở cho quyết định của họ. Tôi cho rằng Đền Thờ Quốc Tổ là nơi tôn nghiêm, công việc xây dựng vì vậy không thể tiến hành một cách âm thầm, bất hợp pháp; mà phải được tổ chức một cách hợp pháp và minh bạch.

CÔNG TY

10. Căn cứ tài liệu lưu giữ ở ASIC, công ty VCHC được đăng bộ vào ngày 11/7/03 với 17 thành viên. Khi đăng ký: ông Phong, ông Trần Đức Vũ, và cô Nguyễn Phượng Vỹ làm giám đốc, bà Bé Hà làm Thủ Quỹ. Tháng 11/06, cô Phượng Vỹ từ chức, sau đó ông Nguyễn Bon được ông Phong đưa vào làm giám đốc. Tháng 11/07, ông Trần Đức Vũ từ chức, ông Phong và bà Bé Hà sau đó đưa ông Nguyễn Đức Vĩnh vào thay. Chúng tôi không tìm thấy tên của 6 thành viên “bình thường” được ông Phong đưa vào danh sách thành viên công ty trong bất kỳ tài liệu nào của công ty được lưu giữ ở ASIC.

11. Cuộc họp khoáng đại đầu tiên của thành viên của công ty VCHC chỉ sẽ được tổ chức năm (5) năm sau ngày thành lập. Vì vậy, việc điều hành công ty từ ngày thành lập cho đến hiện nay đều do các giám đốc, thủ quỹ quyết định và chịu trách nhiệm.

12. Tôi tìm thấy có hai (2) bản điều lệ công ty (Constitution): Bản tiếng Anh, nộp cho ASIC, có ghi các điều lệ về tính vĩnh viễn của Giám Đốc Sáng Lập (không cần bầu lại, không giới hạn số nhiệm kỳ, không quy định tuổi tác phục vụ). Bản tiếng Việt, ông Phong đưa ra trong các cuộc họp, thì không có ghi điều lệ về tính vĩnh viễn của Giám Đốc Sáng Lập. Do sự thay đổi giám đốc, hiện nay, theo điều lệ của công ty VCHC, ông Phong là Giám Đốc Sáng Lập duy nhất của công ty VCHC.

13. Tôi bác bỏ lập luận của ông Phong cho rằng các thảo luận về việc thành lập công ty xảy ra trong nhiệm kỳ của ông Châu Xuân Hùng, vì: công ty được đăng bộ với ASIC vào ngày 11/7/03; bầu cử Hội Cộng Đồng được tổ chức vào ngày 10/8/03, sau đó khoảng 4 tuần, ông Hùng nhận bàn giao. Ông Phong phải chịu trách nhiệm về việc tổ chức thành lập công ty VCHC. Ông Phong không thể quy trách nhiệm việc này cho ông Hùng.

14. Căn cứ các báo cáo tài chánh của công ty VCHC đã nộp với ASIC, tôi tìm thấy rằng, kể từ ngày thành lập cho đến hiện nay, công ty không được nhận bất cứ một khoản tài trợ trực tiếp nào của chính phủ. Thu nhập của công ty là do đồng bào đóng góp cho công cuộc xây dựng Đền Thờ Quốc Tổ, từ các hoạt động cộng đồng do Hội Cộng Đồng tổ chức, hay trực tiếp chuyển từ trương mục ngân hàng của Hội Cộng Đồng. Công ty VCHC không trực tiếp đăng cai tổ chức các hoạt động sinh hoạt cộng đồng. Theo báo cáo tài chánh nộp cho CAV, Hội Cộng Đồng trực tiếp nhận tài trợ của các cấp chính phủ hằng năm trung bình là A$300,000. Với những bằng chứng đã nêu, tôi hoàn toàn có cơ sở để bác bỏ lập luận của ông Phong cho rằng việc thành lập công ty VCHC này là để xin tài trợ chính phủ cho các hoạt động văn hoá của cộng đồng người Việt.

15. Thành viên Hội Cộng Đồng bao gồm một số đồng bào người Việt sinh sống ở tiểu bang Victoria và các đoàn thể liên đới. Trong khi số thành viên của công ty VCHC là 17. Sử dụng công ty VCHC như một phương tiện, ông Phong và bà Bé Hà đã tước đoạt quyền lợi và quyền hạn của hội viên Hội Cộng Đồng đối với các tài sản được chuyển từ Hội Cộng Đồng sang công ty VCHC.

KẾT

 

Căn cứ trên những bằng chứng đã nêu, tôi tin rằng:

1. Ông Phong và bà Bé Hà đã mua đất một cách không minh bạch, và vi phạm các quy định pháp luật;

2. Ông Phong và bà Bé Hà đã không tìm hiểu tình trạng của các lô đất trước khi mua; gây đình trệ việc xây dựng Đền Thờ Quốc Tổ trong 6 năm qua;

3. Ông Phong và bà Bé Hà đã xây dựng “cơ sở tạm” một cách bất hợp pháp, sai quy cách, không an toàn, phí phạm nghiêm trọng tài sản chung; và

4. Ông Phong và bà Bé Hà đã và đang sử dụng Công Ty VCHC để quản trị một phần tài sản cộng đồng, tước đoạt quyền hạn và quyền lợi của các thành viên Hội Cộng Đồng đối với các tài sản đó.

Tôi quyết định:

1. Đòi hỏi ông Phong và bà Bé Hà phải lập tức trả lại toàn bộ phần tài sản của cộng đồng mà hiện nay công ty VCHC đang chiếm giữ;

2. Tuyên bố bất tín nhiệm ông Phong trong bất kỳ một chức danh nào đại diện cho cộng đồng người Việt tiểu bang Victoria;

3. Thỉnh cầu tất cả các phương tiện truyền thông cộng đồng, công bố văn bản này;

4. Yêu cầu sự giúp đỡ của các cơ quan chính phủ có liên hệ, các đại diện dân cử;

5. Tiến hành thủ tục pháp lý dân sự ở Toà Án, nếu điều kiện pháp lý và tài chánh cho phép.

Tôi kính mong được sự hỗ trợ của thân hữu và đồng bào.

 

Kính thư,

Melbourne, ngày: 14 /03/ 2008

 

Dai Nguyen

 

Nguyễn Bá Đại                                                              

                                                           

Liên Lạc:

Luật Sư Nguyễn Bá Đại

Suite 24 & 25, Level 1, 7-9 Leeds St., Footscray, VIC. 3011

T: 9689 7744, F: 9689 3749, E: [email protected]