Vụ chứng minh Nguyễn Chí Thiện thật hay giả, ai là tác giả tập thơ Vô Đề tạm coi… như xong, chờ những trận bôi bẩn

29 Tháng Mười, 2008 | Người Việt đó đây

 

 

Đào Nương Hoàng Dược Thảo và Nguyễn Chí Thiện trong cuộc họp báo

 

 

(TH) Sau cuộc họp báo lịch sử ngày 25.10.08 tại Bôn-xa, thủ đô lắm chuyện của Việt tộc tị nạn, vấn đề “chứng minh” ai là tác giả tập thơ Vô Đề hay Hoa Địa Ngục coi như đã xong. Ông Nguyễn Chí Thiện đã chứng minh bằng lời nói và một bản thông cáo được phổ biến sau đó. Bà Hoàng Dược Thảo đã được nói gần 10 trong 20 phút được phép. Nhưng vì bị la ó nên bà bỏ ra về và nghe nói bà có hứa hẹn “xin tiếp tục đón loạt bài lột mặt nạ “cuội sĩ” Nguyễn Chí Thiện trên báo Sài Gòn Nhỏ đợt, 2”.

 

Dĩ nhiên ấn bản nhật báo Sài Gòn Nhỏ  vừa mới ra đời hồi gần đây sẽ có đề tài “hấp dẫn” để viết, đánh vào những nhân vật có thể gây tranh luận như ông Nguyễn Chí Thiện, một việc làm rất lợi cho tờ báo mới ra đời.

 

Ngoài ra, bà Đào Nương Hoàng Dược Thảo còn có tuần báo Sài Gòn Nhỏ phát hành lâu nay với nhiều ấn bản phát hành rộng rãi ở Hoa Kỳ, nên sẽ mặc sức đánh ông Nguyễn Chí Thiện và những người bênh ông.

 

Dĩ nhiên Đào Nương vẫn luôn luôn hứa dành đất trên báo cho những người bị tấn công có cơ hội phản bác, biện luận hay cải chính mà  “không đặt điều kiện hay giới hạn”. Làm báo Việt ngữ ở hải ngoại kể ra cũng dễ thiệt!

 

Trong buổi gọi là họp báo trở thành họp chợ với những tiếng la ó từ phía ủng hộ ông Nguyễn Chí Thiện, người ta thấy ông Nguyễn Chí Thiện nói năng có vẻ bình tĩnh, chững chạc  dù có lúc cũng hơi tếu lâm và coi thường đối thủ.

 

Đào Nương là “hoa lạc giữa rừng gươm” nhưng cũng có bản lãnh, mặc dù có lúc lớn tiếng và tỏ mất bình tĩnh khiến giọng nói của bà vang lớn và lạc tiếng. Bà bỏ ra về cũng là phải, bởi trong không khí đó chẳng nói gì nhiều hơn.

 

Vả lại, dù ông Nguyễn Chí Thiện cho bà thêm 20 phút nữa cũng chẳng đủ thời gian để bà đưa ra những luận chứng thuyết phục người nghe rằng ông Nguyễn Chí Thiện không phải là tác giả tập thơ vô đề. Đâu đơn giản vậy được? Thử tới các tòa án mà xem các vụ xử, sẽ biết.

 

Lời đề nghị của ông Nguyễn Chí Thiện thách thức bỏ ra $200,000 Mỹ kim để nhờ cơ quan độc lập giảo nghiệm chữ ký xem ra  là trò đùa, “không thích hợp với người làm báo” nhưng có lẽ đó là cách hay nhất để chứng minh ông Nguyễn Chí Thiện có phải là tác giả tập thơ Vô Đề hay hai lá thư bằng tiếng Pháp và Việt trưng dẫn có phải là của một người không?

 

Tiếc rằng Đào Nương dù là chủ của một  “hệ thống” báo chí như “hệ thống Sài Gòn Nhỏ” mà rét trước thách thức này.  Và bà đã chọn “thượng sách” và lá chắn an toàn là tiếp tục dùng tờ báo để đánh ông Nguyễn Chí Thiện.

 

Bà Jean Libby có mặt trong buổi họp, xác nhận ông Nguyễn Chí Thiện là người thật và bà đã không mất niềm tin vào ông để rồi rút những bài về ngục sĩ này trên website của bà.  Bà Libby yêu cầu bà Hoàng Dược Thảo phải viết trên báo của bà lời xin lỗi bằng tiếng Việt, nhưng hôm đó không nghe bà Hoàng Dược Thảo trả lời.

 

Ông Nguyễn Công Giân, anh của ông Nguyễn Chí Thiện,  phát biểu

 

Ông Nguyễn Công Giân, anh ruột của ông Nguyễn Chí Thiện, xác nhận ông không ra Bắc trước năm 1975 như báo bà Hoàng Dược Thảo cáo buộc và cho biết có thể cuối cùng ông sẽ phải kiện những người vu cáo, mạ lỵ ông.

 

Cũng nên biết, nhiều người và ngay cả những luật sư tơ lơ mơ thường cho rằng hễ ai là người của công chúng (public figure) là mặc sức chỉ trích, cáo buộc, không can chi.  Thực tế không hẳn như vậy.

 

Dù người bị cáo buộc là tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng (những public figures thứ thiệt), nhưng cáo buộc mà không có bằng chứng để chứng minh cáo buộc đó trước tòa, và nếu những cáo buộc đó bị quan tòa (hay bổi thẩm đoàn) coi (phán) là mạ lị, thì vẫn thua kiện như thường… vì mạ lị.

 

Trong cuộc họp báo, bà Đào Nương Hoàng Dược Thảo nói là báo chí, bà “có quyền” phê bình chỉ trích các người được coi là public figure  như ông Nguyễn Chí Thiện hay ông Nguyễn Công Giân là sai. Người nào cố vấn cho bà như thế là cố vấn bậy bạ, học chưa hết bài.

 

Tóm lại, trong khi chưa có ai chứng minh được ông Nguyễn Chí Thiện là giả, không phải tác giả tập thơ Vô Đề, theo pháp luật và theo lẽ thường, ông Nguyễn Chí Thiện là tác giả tập thơ này. Nếu còn tiếp tục nói mà không có bằng chứng, chỉ căn cứ vào nghe hay bàng chứng, thì chỉ là vu cáo.

 

Ông Nguyễn Chí Thiện đã họp báo và đưa ra thông cáo (xem đính kèm dưới đây)  như vậy là đáng khen.

 

Bởi, thật ra, ông không có nhiệm vụ chứng minh ông là “Nguyễn Chí Thiện thật”, là tác giả tập thơ. Xin nhớ cho: Luật pháp đòi hỏi người tố cáo phải chứng minh. Tòa án tây phương (Mỹ hay Úc) khác tòa án nhân dân (của Hà Nội).

 

Như TVTS Online đã nói trước đây, vụ này chỉ có thể giải quyết trắng đen rõ ràng và một lần trước tòa án của Mỹ mà thôi, nếu có thắc mắc hay chưa vừa ý. 

 

Lúc này, mạnh ai nấy nói, sư nói sư phải vãi nói vãi hay.  Nhà báo “vô tư” viết, độc giả “vô tư” đọc. Bôn-xa vẫn là Bôn-xa…

 

* * *

 

Thư của ông Nguyễn Chí Thiện đã được gởi cho báo chí ở Quận Cam. Một phần lá thư đã được ông Nguyễn Chí Thiện đọc hay trích dẫn trong buổi họp báo.  Lá thư sau đây được tung lên internet và TVTS Online nhận được một bản, nguyên văn như sau:

 

Thư ngỏ của thi sĩ Nguyễn Chí Thiện 

 

Thư gửi các Cơ Quan Truyền Thông và Quí Đồng Hương về Cuộc Họp Báo ngày 25 tháng 10, 2008

Kính thưa các vị đại diện các Cơ Quan Truyền Thông

Kính thưa Quí Đồng Hương,

Kể từ năm 2000, khi

linh mục Nguyễn Văn Lý lên tiếng đấu tranh đòi tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền cho dân tộc Việt Nam, tờ Tuần Báo “Saigon Nhỏ” đã viết bài thóa mạ linh mục Lý nặng nề như “ngôn xứ dollar”, “núp dưới váy cô Đoan Trang, giám đốc Đài Phát Thanh Quê Hương,” “vợ con bê bối….” v.v..

 

Đa số những bạn hữu của tôi cũng như bản thân tôi đã không đọc tờ tuần báo đó nữa. Hồi tháng 9, 2008, tôi được nhiều người cho biết trên hai tờ “Saigon Nhỏ” nhật báo và tuần báo có đăng những bài đầy ác ý kết tội tôi tiếm đoạt tập thơ “Tiếng Vọng Từ Đáy Vực” hay “Bản Chúc Thư của Một Người Việt Nam.” Tôi cũng không lưu tâm.

 

Tới khi có người cho tôi biết trên tờ “Saigon Nhỏ” đăng hai bức thư của tôi, một viết bằng tiềng Pháp năm 1979 in trong tập “Tiếng Vọng Từ Đáy Vực” cũng như trong tập “Bản Chúc Thư của Một Người Việt Nam,” một bức thư tôi viết cho giáo sư Nguyễn Ngọc Bích bằng tiếng Việt, ngày 6 tháng 12, 1995, và kết luận hai tự dạng của hai lá thư hoàn toàn khác nhau. Tờ báo không ghi tên họ, văn phòng, địa chỉ của chuyên viên giảo nghiệm chữ viết. Tôi lập tức nhờ bạn bè thu thập tất cả các số “Saigon Nhỏ” viết về tôi. Sau khi đọc xong, tôi quyết định mở cuộc họp báo vào ngày Thứ Bảy, 25 tháng 10, 2008, tại khách sạn Ramada.

 

Sở dĩ tôi giữ sự yên lặng từ ngày đặt chân lên đất Hoa Kỳ tới nay vì những người chống đối tôi chủ yếu thuộc Mặt Trận Cách Mạng Hưng Việt Vạn Thắng.

 

Nhóm Vạn Thắng là ai?

 

Xin mời các bạn hãy đọc một vài đoạn trong tờ Vạn Thắng, số đặc biệt 9, để hiểu rõ lập trường, quan điểm của họ.

 

“Đất nước vẫn khốn khổ vì tập đoàn Việt gian và quốc phạm mà Nguyễn Văn Thiệu là tiêu biểu. Việt cộng thì chưa hẳn.”

“Về đời sống của nhân dân, quả thực Hà Nội đã nới rộng. Nào được tự do đi lễ chùa, cúng tế, nhà sư được tự do gõ mõ, tụng kinh. Nào được rước sách. Linh mục được tự do hành đạo. Báo chí lại được tự do phê bình, công kích cán bộ tham nhũng, làm điều sai trái. Nếu so với thập niên 80, người dân từ đáy địa ngục đã được vớt đưa vào vườn “địa đàng”.

 

“Những người cách mạng trước đây như Phạm Văn Đồng, họ có kiến thức chính trị của họ, họ có sách lược ngắn và dài của họ, họ có con đường lý tưởng của họ, và nhiều người trong sạch, liêm khiết. Phạm Văn Đồng là một.”

 

“Kể cả các thành viên trong tập đoàn lãnh đạo Bắc Bộ Phủ nếu giác ngộ, quay đầu về với chính nghĩa dân tộc, từ bỏ tham vọng và lợi quyền cá nhân, đứng về phía quốc dân thì lúc ấy đương sự đã hòa vào quốc dân nên không có vấn đề cần phải hòa giải với đương sự. Lại tuyệt nhiên không thể có vấn đề hòa giải với bọn Việt gian, bọn dẫn mối cho các thế lực xâm thực để phá nước hại dân. Nguyễn Văn Thiệu là một thí dụ. Trước sau Thiệu là tội đồ của dân tộc. Y là tên quốc phạm.”


Với những quan điểm trên, nhóm Vạn Thắng không đáng để tôi trả lời.


Khởi đầu tôi bị nhóm Vạn Thắng kết tội ăn cắp thơ của nhà cách mạng Lý Đông A. Sau đó, thấy lập luận này sụp đổ, họ nói Nguyễn Chí Thiện (NCT) thật đã chết, tôi đang sống ở Hoa Kỳ là NCT giả, là tình báo cộng sản, v.v…  Lập luận này cũng không đứng vững, họ chuyển sang nói tôi chép thơ của một người vô danh nào đó, tôi không phải là tác giả đích thực.

Lúc đầu trong Tuần Báo “Saigon Nhỏ” ngày 12 tháng 9, 2008, ở mục “Phiếm Dị” bà Đào Nương viết: “Đã có nhiều bài viết của nhiều tác giả khác nhau chứng minh rằng ông NCT đang sống ở Mỹ chính là ông Thiện Dởm.”

 

Bà còn nêu 12 nghi vấn của các tác giả nêu ra về tôi, trong đó có nghi vấn 10 về tấm hình chụp “so sánh các tấm hình thấy có sự khác biệt.” Và nghi vấn số 12 cho rằng nhà cách mạng Lý Đông A mới chính là tác giả tập thơ Hoa Địa Ngục.

 

Cũng trong mục “Phíêm Dị” này bà Đào Nương còn viết: “Đào Nương tôi cũng chỉ xin ông NCT xác định lại là điều thách đố này về vụ thử DNA có đúng không? Nếu ông thắng thì sao và nếu ông thua thì sao?  Số tiền 100 ngàn dollars ông đòi hơi nhiều. Nhưng nếu thử nghiệm DNA chứng minh ông là hàng “thật” và tinh thần chống cộng của ông hăng say là chuyện thật thì người Việt hải ngoại sẽ quyên tiền đưa ông làm việc từ thiện và chấm dứt một nghi án về văn học và chính trị khi nhân chứng còn sống sờ sờ ra đó. Còn nếu ông Thiện là hàng “dởm” thì chỉ xin ông cuốn gói về trình diện “bác” là xong? Ông đồng ý không?


Thật rõ rệt, hồi tháng 9, bà Đào Nương vẫn nghi tôi là Thiện “dởm”, còn Thiện thật tác giả Hoa Địa Ngục đã chết. Bà vẫn nghi Lý Đông A mới là tác giả thực của Hoa Địa Ngục, dù hai nghi vấn này mâu thuẫn nhau.


Đùng  một cái, chỉ bốn tuần sau, cũng trong mục “Phíêm Dị” của “Saigon Nhỏ”, trong thư gửi nhà văn Trần Phong Vũ, bà đổi hẳn giọng viết “không ai đặt vấn đề NCT thật-NCT giả, NCT chống cộng-NCT tay sai cộng sản.”


Mong bà đọc lại những bài ông Triệu Lan viết đăng trên báo bà. Ông xác định tôi là cộng sản, là gián điệp, đủ thứ, v.v… Chính bản thân bà cũng đem các tên gián điệp Việt cộng Phạm Đình Thảo, Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ ra so sánh với trường hợp của tôi.

Rồi cũng đùng một cái, chỉ ba tuần sau, trong Nhật Báo “Saigon Nhỏ” Thứ Sáu, ngày 3 tháng 10, 2008, bà viết phản lại bà, coi chuyện Lý Đông A là “xưa” rồi.

 

Bà viết: “Chuyện ông Lê Tư Vinh và nhóm Vạn Thắng không tin ông NCT là tác giả tập thơ Vô Đề và ông Trần Ngọc Ninh cho rằng đó là tác phẩm của ông Lý Đông A thì  “xưa” như chuyện văn bút hải ngoại của các ông rồi.”


Lý luận mà viết buông thả theo từng cơn hứng của mình như vậy mà cứ nằng nặc đòi người khác phải trả lời, phải thỏa mãn yêu cầu!


Còn ông Triệu Lan bà rất coi trọng lại nghi tập chuyện Hỏa Lò của tôi là do Bùi Tín, Vũ Thư Hiên viết (Tuần Báo Saigon Nhỏ, ngày 3 tháng 10, 2008). Nhưng chỉ một tuần sau, trong Tuần Báo “Saigon Nhỏ” ngày 10 tháng 10, 2008, ông Triệu Lan sửa hẳn đoạn văn tôi viết về Phùng Cung in trong tập truyện Hỏa Lò để chê tôi “không biết viết văn, chỉ viết láo.” Gian dối trắng trợn đến thế là cùng!


Trong tờ Tuần Báo “Saigon Nhỏ” ngày 28 tháng 9, 2008, ông Triệu Lan viết là ông có đủ bằng chứng là tôi làm việc cho Bắc Kinh trong nhiều năm qua! Thần kinh của ông Triệu Lan quả là có vấn đề! Cũng trong bài “Vè Sĩ NCT” này, ông quyết đoán rằng cuộc thập tự chinh trong Ai -Van- Hô chỉ được dịch sang tiếng Anh vào giữa thập niên 80! (dịch tiếng Anh sang tiếng Anh!) Tiếp sau đó, ông có một nhận định hoang tưởng về hai câu thơ của tôi làm từ 1962:


Sống một ngàn một đêm lẻ trong dinh

Dựng lên bởi thần đèn giúp A- La- Đanh cưới vợ


Ông Triệu Lan viết: “Cuộc tấn công lật đổ Saddam Hussein ở Iraq được gói gọn trong hai câu “sống một ngàn một đêm lẻ trong dinh. Dựng lên bởi thần đèn A -La- Đanh cưới vợ.”

“Sau cuộc chiến tranh Mỹ Iraq, các cường quốc cũng như dân chúng đều muốn Mỹ phải rút quân ra khỏi Iraq ngay. Nhưng chính phủ Mỹ từ ông Bush, ông Rumfiel, và ông Powell (đã về hưu)  đều nói rằng quân đội Hoa Kỳ sẽ ở lại Iraq từ ba (3) đến năm (5) nữa để ổn định trật tự cho nước Iraq, như vậy quân đội Hoa Kỳ sẽ “sống một ngàn một đêm lẻ trong dinh. (trong dinh, trong Baghdad) một ngàn một đêm lẽ là hơn ba năm, trong dinh là ngay trong Baghdad.

 

Dựng lên bởi thần đèn giúp A -La -Đanh cưới vợ. Thần đèn là ông vua dầu hỏa Cheney hay các công ty Cheney này sẽ thầu và tái thiết Iraq. Giúp A- La-Đanh  (A- La -Đanh tượng trưng cho dân nghèo Iraq, giúp cho đám dân nghèo Iraq. Cưới vợ là có đời sống hạnh phúc tự do.”


Còn nữa, nhưng mỏi tay rồi, tôi xin ngưng trích. Đọc đến đoạn này tôi cười. Thì ra cái ông Triệu Lan này giống hệt ông thầy tướng số Lê Tư Vinh “Hà Lạc Dã Phu Điên Tử” gì đó. Tên hiệu dài quá tôi không nhớ. Tôi cười rồi tôi buồn, buồn vì người như vậy, viết như vậy mà cũng có người tin, thậm chí có người phục! Cũng có báo đăng!


Thưa các bạn, tôi mở cuộc họp báo, mục đích chủ yếu là làm sáng tỏ vấn đề giảo nghiệm tự dạng, vạch trần những luận điệu gian dối nhằm vào tôi trong mười mấy năm qua, theo ý kiến của các thân hữu.


Thứ nhất: Tôi xin trình bày về việc giảo nghiệm chữ. Ngay từ khi tôi mới sang Hoa Kỳ, ngày 13 tháng 12, 1995, nhà báo Nguyễn Sĩ Hưng đã nhờ chuyên viên giảo nghiệm tự dạng. Bà Dorothy Brinkerhoff thuộc National Forensic Center, địa chỉ  văn phòng ở 4316 Boyar Ave, Long Beach, CA 90807.

Tài liệu giảo nghiệm gồm hai phần:

 

Phần A: Bức thư tôi viết bằng tiếng Pháp trong “Tiếng Vọng từ Đáy Vực” năm 1979, và một trang bài thơ Đồng Lấy.

 

Phần B: Bức thư tôi viết gửi đồng hương tị nạn hải ngoại, ngày 7 tháng 11, 1995, sáu ngày sau khi tôi tới Hoa Kỳ.


Kết luận giảo nghiệm xác nhận hai tự dạng, phần A và phần B là của cùng một người viết.


Tôi không hề hay biết việc ông Nguyễn Sĩ Hưng nhờ chuyên viên giảo nghiệm chữ tôi. Hồi tháng 9, 2008, ông Hưng mới cho tôi hay.


Ngày 9 tháng 10, 2008, tôi tới văn phòng chuyên viên giảo nghiệm tự dạng Marcel B. Matley, tại 3092 Army St, CA 94110, San Francisco, CA 94188, giao cho ông 5 trang nguyên bản bài thơ Đồng Lầy, trong đó có lá thư tôi viết bằng tiếng Pháp. Đó là phần A.


Phần B: Bức thư tôi viết bằng tiếng Việt gửi cho giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, ngày 6 tháng 12, 1995, có in trong tập Flowers of Hell, dịch giả Nguyễn Ngọc Bích, xuất bản 1996.


Phần C: Một trang tôi viết bằng tiếng Anh, chú thích những danh từ xử dụng trong tập truyện Hỏa Lò bằng tiếng Anh được đại học Yale xuất bản tháng 11, 2007.


Kết luận: Tất cả 3 phần A,B,C là chữ của một người viết.


Chuyên viên giảo nghiệm chữ, ông Matley, nếu cần thiết sẽ làm chứng tại tòa án.


Thứ hai: Tôi xin trình bày về việc giảo nghiệm hình ảnh.

Năm 2006, Báo Đời Nay ở Virginia có đăng một bài báo của một người nào đó khẳng định ảnh chụp của tôi ở Hoa Kỳ khác với ảnh được chụp trong tù năm 1991, in ở bìa cuốn Hạt Máu Thơ tức Hoa Địa Ngục 2, xuất bản 1996, khác với ảnh tôi hồi còn trẻ, và kết luận tôi là Thiện giả.

 

Liền sau đó, tôi nhờ giáo sư Jean Libby mang hai tấm hình tôi chụp ở Hoa Kỳ, một tấm hình năm tôi 39 tuổi, và tấm hình tôi được chụp trong tù đến ông Gregg Stutchman, giảo nghiệm trưởng, tại phòng giảo nghiệm Stutchman Forensic Laboratory, 421 Walnut St, Suite 120, Napa, CA 94559.


Kết luận: Tất cả những tấm hình này là cùng một người.

Báo Đời Nay đã cho đăng trên báo tất cả và có lời xin lỗi.

 

Những tài liệu về những cuộc giảo nghiệm này, tôi sẽ trao cho các cơ quan truyền thông hôm họp báo.


Thưa các bạn, giảo nghiệm chữ viết, hình ảnh đều minh chứng tôi là tác giả tập thơ Hoa Địa Ngục 1. Thêm vào đó, một số bạn tù của tôi như nhà thơ Phùng Cung; nhà văn Vũ Thư Hiên; cựu đại úy trong Quân Đội Quốc Gia Bảo Đại Kiều Duy Vĩnh, người ở lại miền Bắc 1954, bị bỏ tù 15 năm, thân phụ bị bắn chết trong Cải Cách Ruộng Đất, hiện ông đang ở Hà Nội; nhà thơ Lê Quang Dũng hiện ở Hà Nội; anh Tô Huy Cơ cháu gọi nhà văn Hoàng Hải Thủy bằng cậu; anh Nguyễn Ký hiện ở Nam California; anh biệt kích Lưu Nghĩa Lương hiện ở Nam California; linh mục Nguyễn Văn Lý hiện ở tù, v.v…

Những người này còn sống và xác nhận tôi thường đọc thơ cho họ nghe trong tù. Hiển nhiên đến như vậy, không thể chối cãi được thì lập tức những kẽ vu khống tôi lại dựng lên một lập luận mới. Họ công nhận tôi là NCT thật, công nhận tôi có ở tù, nhưng tôi chỉ là người chép lại thơ của một người vô danh nào đó.

 

Theo kiểu lập luận này, tôi có thể nói cuốn Mùa Hè Đỏ Lửa không phải của nhà văn Phan Nhật Nam viết mà ai đó viết hộ ông, và tôi có thể nói như vậy với bất cứ một nhà văn, nhà thơ nào, vì không cần bắng cớ.


Thưa các bạn, Machiavelli, một triết gia chính trị người Ý từ cuối thế kỷ 15 đã viết: “Cứ vu khống, tiếp tục vu khống, một cái gì đó sẽ lưu lại (calomniez et calomniez, il en reste toujours quelque chose). Bọn cộng sản, bọn quốc xã trong thế kỷ 20 đã là những học trò giỏi của Machiavelli.

Cũng từ lâu lắm, nhiều người có thiện cảm với tôi giục tôi phải viết hẳn một bài dài trả lời những bài báo viết bậy bạ về tôi. Suốt mười mấy năm tôi đã nghe theo lời khuyên của George Washington: “Kiên trì làm nhiệm vụ của mình và yên lặng là câu trả lời tốt nhất đối với sự vu khống.” (To persevere in one’s duty and to be silent is the best answer to calumny.)

 

Cũng như lời khuyên của Thomas Paine, nhà ái quốc kiêm nhà văn của Hoa Kỳ đồng thời với George Washington: ” Vu khống là một thói hư có thể chất kỳ cục, cố công diệt nó lại chính là nuôi nó sống, mặc xác nó, tự nhiên nó chết. (Calumny is a vice of curious constitution. Trying to kill it keeps it alive, leave it to itself and it will die a natural death.)

 

Tôi vẫn tin là đúng, những lời vàng ngọc của hai danh nhân Hoa Kỳ thời lập quốc, nhưng chìêu lòng những người thương mến tôi, tôi đã tổ chức cuộc họp báo này.


Xin chân thành cảm tạ các anh chị em truyền thông, quí đồng hương tới tham dự. Sự có mặt của các bạn làm tôi xúc động, sẽ cho tôi thêm nghị lực để tiếp tục đấu tranh cùng với các bạn cho một Việt Nam dân chủ, tự do, thịnh vượng.


Nam California, ngày 24 tháng 10, 2008.

Nguyễn Chí Thiện

9051 Oasis Ave  Garden Gorve, CA 92844  (714) 260 2007